Một con vẹt cô độc và thất vọng sẽ bồn chồn không yên, đi đi lại lại quanh lồng. Nếu bạn không biết rõ, bạn sẽ cho rằng đó là một con vẹt năng nổ và vui nhộn. Thật ra, nó chỉ muốn diễn đạt sự giận dữ và nỗi bất hạnh của mình.
Bạn thường chỉ thấy vẹt trong lồng, có lẽ bạn không biết rằng loài chim đáng lưu ý này sống một cuộc đời khác hẳn khi chúng ở ngoài thiên nhiên. Phần lớn lũ vẹt sống cặp đôi suốt đời. Một con vẹt độc thân sẽ cảm thấy cô đơn vô cùng. Cho dù ý định của chúng ta tốt đẹp đến đâu, chúng ta có thể vô cùng độc ác với con vẹt của mình mà không hay nếu chúng ta nhất định chỉ nuôi một con. Một con vẹt cô độc và thất vọng sẽ bồn chồn không yên, đi đi lại lại quanh lồng. Nếu bạn không biết rõ, bạn sẽ cho rằng đó là một con vẹt năng nổ và vui nhộn. Thật ra, nó chỉ muốn diễn đạt sự giận dữ và nỗi bất hạnh của mình.
Gia đình họ vẹt là một gia đình đông đúc, gồm có chim trĩ, vẹt đuôi dài Nam Mỹ, vẹt mào, vẹt xanh, vẹt đuôi dài Úc châu, và nhiều loại khác. Mặc dù chúng ta thường nghĩ tất cả bọn chúng đều có bộ lông sặc sỡ xinh đẹp, rất nhiều loài vẹt chỉ khoác những bộ lông màu xám và nâu xỉn nhất. Loài chim có bộ lông ít phô trương chỉ có một lợi thế so với loài anh em có màu sặc sỡ: không ai nghĩ đến việc gắn lông nó lên mũ! Loài vẹt đẹp nhất đã từng chịu đau khổ khá nhiều khi bộ lông của nó bỗng trở thành mốt thời thượng ở New York, Paris hay London. Đã có một thời gian ngắn vào thế kỷ 19, cái mũ yểu điệu đúng mốt nhất của các bà có cả một con vẹt nhồi ngự trên vành mũ!
Dường như loài vẹt không thể không lôi kéo sự chú ý. Ngay từ năm thứ 200 trước Công Nguyên, người La Mã cổ đại đã nuôi vẹt làm cảnh. Thỉnh thoảng họ còn đem rôti chúng nữa và coi đó là một món ăn thơm ngon nhất. Nhưng chính tài năng của loài vẹt – khả năng kỳ lạ có thể lặp lại ngôn ngữ loài người – chứ không phải mùi vị của nó khiến nó trở nên đắt giá. Lần đầu tiên loài vẹt nói tiếng người là vào thời La Mã.
Có lẽ người La Mã đã bắt vẹt ở châu Phi, Vẹt ở khắp nơi trên thế giới, trừ châu Âu và hai miền cực. Phần lớn chúng ở vùng rừng nhiệt đới Nam Mỹ, châu Phi và Nam Á. Nhưng chúng còn sống ở vùng bờ biển và vùng núi cao. Một vài loài sống ở New Zealand, như loài Kea, đôi khi còn đi lang thang trên những băng hà vùng cao nguyên. Thực ra loài Kea coi đó là trò chơi rất thú vị. Điều duy nhất mà loài vẹt không chịu nổi là không khí quá khô. Tất cả loài vẹt đều cần độ ẩm rất lớn.
Gần như tất cả tám trăm mười sáu loài vẹt đều có thể nói ít nhất một hay hai từ khi được nuôi trong nhà. Không ai biết tại sao chúng lại nói. Chúng không có vẻ gì ham thích lặp lại những âm thanh quanh chúng trong thiên nhiên, nhưng chúng học nhại lại chúng ta rất nhanh. Và trong khi bạn chật vật chưa phát âm được một từ tiếng Nga hay Mandarin, vẹt có thể nhại lại bất kỳ ngôn ngữ nào. Không chỉ có thế, mà khi một con vẹt đã học được giai điệu nào đó, nó sẽ hát rất đúng nốt. Vẹt còn có thể nâng giọng hay hạ giọng đoạn nhạc đó – có lẽ nó muốn phô diễn – nhưng nó không bao giờ sai nhạc điệu. Loài người chúng ta gọi khả năng đó là “hát đúng giọng”. Rõ ràng tất cả loài vẹt đều hát đúng giọng, nhưng chỉ một trong số vài trăm người có khả năng đó. Vẹt còn có thể nhớ nhịp rất chính xác và chúng không bao giờ trật nhịp.
Dĩ nhiên loài vẹt không thực sự hiểu chúng đang nói gì, hay hát gì. Các nhà khoa học cho rằng vẹt coi những âm thanh của con người như những tiếng gọi bạn, và khi chúng nhại lại giọng của bạn tức là chúng đang tỏ ra đặc biệt thân thiện. Nếu con vẹt nhại lại giọng ai đó trong số bạn bè của bạn, bạn sẽ nhận ra ngay kiểu nói của anh ta. Chúng ta đều có những câu nói đặc trưng và nhịp điệu riêng. Ngay cả những chi tiết đó cũng không qua được tài năng của bọn vẹt.
Bạn có thích một con vẹt biết nói không? Một số loài biết nói sõi hơn loài khác. Có lẽ vô địch là loài vẹt xám. Một vài trăm từ và vài bài hát không phải là thành tích đặc biệt của chúng! Nói cho chính xác, một vài con rất thông minh, có thể chào hỏi rất đúng lúc. Người ta đã từng dạy chúng đọc vài đoạn trích trong một vở kịch như thể chúng là một gánh hát. Điều không may là không ai dám đảm bảo một con vẹt nào đó có thích nói hay không. Và ngược lại nếu con vẹt của bạn thuộc loại lắm mồm, không ai dám đảm bảo rằng bạn sẽ bắt nó ngưng được khi bạn đã chán ngấy cái điệu lảm nhảm của nó. Hơn nữa, một vài chú vẹt dường như chỉ chọn những từ dễ gây lúng túng nhất và nói vào những lúc hoàn toàn không thích hợp.
Ngay cả khi bạn kiếm được một con thật dễ thương – và những con như thế không rẻ đâu – bạn cũng nên kiểm tra xem chúng có hợp pháp không. Vẹt không phải tội phạm, nhưng chúng mang nhiều bệnh mà con người dễ lây. Bệnh đó gọi là psittacosis hay “sốt vẹt”, nhưng nay gọi là ornithosis hay “sốt chim”. Bác sĩ phát hiện ra rằng không chỉ vẹt mang mầm bệnh phổi này, mà cả gà, bồ câu, bạch yến và vài loài chim biển đều có. Năm 1937, nước Mỹ đã cấm đưa vẹt vào nước họ, nhưng bây giờ luật pháp đã thay đổi. Hiện giờ vẹt bị giữ lại bốn mươi lăm ngày để tiêm phòng ngừa bệnh. Cẩn tắc vô ưu, điều đó giúp chúng – và cả bạn nữa – luôn luôn khỏe mạnh.