Chó chăn cừu Đức (còn gọi là chó Alsace), (tiếng Đức: Deutscher Schäferhund) là một giống chó kích cỡ trung bình, xuất xứ từ Đức. Tại Việt Nam, giống chó này được gọi là chó Berger (béc giê hay bẹc giê), phiên âm từ tiếng Pháp berger cũng có nghĩa là chó chăn cừu. Chó chăn cừu Đức là một giống chó tương đối mới, phát sinh từ năm 1899. Chó chăn cừu Đức thuộc nhóm chó chăn gia súc, ban đầu được gây giống để chăn cừu. Do có sức lực, thông minh và có khả năng tuân thủ mệnh lệnh trong huấn luyện, chúng thường được dùng trong lực lượng cảnh sát và quân sự. Vì chúng rất trung thành và có bản năng bảo vệ chủ, chó chăn cừu Đức là một trong các nòi chó được đăng ký nhiều nhất.
I - Lịch sử
1. Nguồn gốc
Tại châu Âu trong những năm 1800, người ta thử tiến hành chuẩn hóa các chủng loại chó. Các nòi chó được lai tạo ra để có các đặc trưng phù hợp cho việc chăn gia súc, bảo vệ chúng khỏi thú dữ tấn công. Tại Đức, việc này được tiến hành tại nhiều địa phương, nơi người ta lựa chọn các chú chó chăn cừu và cho sinh sản chó con mà người ta cho là có các đặc tính tốt, cần thiết cho việc chăn cừu, như là thông minh, nhanh nhẹn, khỏe, và thính mùi. Kết quả là sản sinh ra nhiều con chó có khả năng thực hiện rất tốt nhiệm vụ, nhưng rất khác nhau, cả về hình dáng và khả năng, ở từng địa phương.
Chó chăn cừu Đức, con cái (bên trái) và con đực (bên phải)
Để giải quyết vấn đề đó, Hiệp hội Phylax được thành lập năm 1891 với tiêu chí thiết lập tiêu chuẩn cho các nòi chó được lai tạo tại Đức. Hiệp hội giải tán chỉ sau ba năm hoạt động, vì những cuộc đấu đá trong nội bộ liên quan đến việc liệu tiêu chí nào nên được khuyến khích; với một số thành viên chủ trương phát triển giống chó chỉ để lao động, còn một số thành viên khác thì lại cho rằng cần cả hình thức nữa. Dù không đạt được mục đích của mình, Hiệp hội Phylax cũng đã truyền cảm hứng cho một số người theo đuổi việc chuẩn hóa nòi chó một cách độc lập.
Một người gác đêm Đức với chú chó chăn cừu, 1950
Một trong số các thành viên có lập trường như vậy là Max von Stephanitz, nguyên là đại úy kị binh và cựu sinh viên trường Đại học thú y Berlin.
Năm 1899, Von Stephanitz tham dự một cuộc triển lãm chó, tại đó ông thấy một chú chó tên là Hektor Linksrhein. Hektor là kết quả của việc chọn lọc qua nhiều đời, và hoàn toàn phù hợp với những gì mà Von Stephanitz tin tưởng chó lao động cần có. Ông hoàn toàn thỏa mãn với sức lực của con chó này, và hoàn toàn bị chinh phục bởi sự thông minh và trung thành của nó, nên ngay lập tức ông hỏi mua nó. Ông đổi tên nó thành Horand von Grafrath và Von Stephanitz thành lập Verein für Deutsche Schäferhunde (Hội chó chăn cừu Đức). Horand được chọn để làm con chó nòi chăn cừu Đức đầu tiên, và là con chó đầu tiên được đăng ký bởi hiệp hội.
Horand trở thành trung tâm của chương trình lai tạo, và được phối giống với những con chó có các đặc tính tốt của các hội viên khác. Dù sinh ra nhiều chó con, nhưng chó con nổi bật nhất của nó là Hektor von Schwaben. Hektor được cho phối giống lẫn với những chó con khác của Horand và sinh ra Beowulf, chú chó sau này cho ra đời tổng cộng 84 chó con, phần lớn qua phối giống với những con cháu khác của Hektor. Chó dòng dõi từ Beowulf cũng được cho lai cùng dòng, và từ con cháu của nó sinh ra dòng chó chăn cừu Đức. Người ta tin rằng thành công của hiệp hội phần lớn nhờ vào tài lãnh đạo mạnh mẽ, không nhân nhượng của Von Stephanitz, và ông như vậy là người khai sinh ra dòng chó chăn cừu Đức.
2. Độ ưa chuộng
Khi Câu lạc bộ Kennel Anh nhận đăng ký nòi này năm 1919, có 54 chú chó được đăng ký, và tới năm 1926, đã có tổng cộng 8.000 chú chó. Nòi chó này lần đầu được ghi nhận trên thế giới khi Đại chiến thế giới lần thứ nhất đi đến hồi kết, các binh lính trở về nhà hết sức khen ngợi giống chó này. Các chú chó diễn viên như Rin Tin Tin và Strongheart càng làm giống này được ưa chuộng. Chú chó chăn cừu Đức đầu tiên được đăng ký tại Hoa Kỳ là Nữ hoàng Thụy Sỹ; tuy nhiên các chó con mà nó sinh ra không được hoàn hảo, kết quả của việc nhân giống tồi, khiến cho giống chó này mất đi sự ưa chuộng trong nửa cuối những năm 1920. Sự ưa chuộng với nòi chó này tăng lên sau khi chú chó Sieger Pfeffer von Bern đoạt giải Grand Victor trong các năm 1937 và 1938 Grand Victor tại các cuộc triển lãm chó của câu lạc bộ American Kennel, rồi lại giảm đi khi Đại chiến thế giới lần thứ hai kết thúc, kết quả của tinh thần bài Đức khi đó. Thời gian trôi đi, độ ưa chuộng của giống chó này tăng lên, cho tới năm 1993, chúng trở thành giống chó được ưa chuộng thứ ba tại Hoa Kỳ. Tới năm 2009, nòi chó này là nòi chó được ưa chuộng thứ nhì tại Mỹ. Thêm vào đó, giống chó này thường là giống chó được ưa chuộng nhất tại các nước khác. Chó chăn cừu Đức có hình thể rất thích hợp cho khả năng vận động. Chúng thường tranh tài trong các cuộc trình diễn và thử sức 'biểu diễn nhanh nhẹn'.
3. Tên gọi
Giống chó này được gọi là Deutscher Schäferhund bởi Von Stephanitz, dịch là "chó chăn cừu Đức". Giống chó này có tên gọi như vậy vì mục đích ban đầu là tạo ra một giống chó để giúp chăn và bảo vệ cừu. Cùng với thời gian, những giống chó chăn súc vật khác ở Đức cũng được gọi bằng tên này, thì người ta gọi chúng là Altdeutsche Schäferhunde hoặc chó chăn cừu cổ. Chó chăn cừu lần đầu tiên được xuất sang Anh năm 1908, và Câu lạc bộ Kennel Anh bắt đầu ghi nhận giống này năm 1919.
Tên gọi này được sử dụng trong đăng ký chính thức, tuy nhiên tới cuối Đại chiến thế giới II, người ta ngại rằng việc dùng tên Đức sẽ làm ảnh hưởng xấu đến giống chó này, do tinh thần bài Đức thời đó. Giống chó này do vậy được Câu lạc bộ Kennel gọi là "chó-sói Alsace ", và được nhiều câu lạc bộ chó quốc tế khác chấp nhận. Cuối cùng thì tên ghép "chó-sói" cũng được ngưng sử dụng. Tên gọi Alsace tồn tại trong năm thập kỷ, cho tới năm 1977, khi những người yêu thích chó cũng thành công trong việc gây sức ép lên câu lạc bộ chó ở Anh để giống này được đăng ký trở lại với tên gọi chó chăn cừu Đức.
4. Thời hiện đại
Chó chăn cừu Đức hiện đại bị chỉ trích là đã đi trệch hướng so với ý tưởng ban đầu của von Stephanitz cho giống này: rằng chó chăn cừu Đức chỉ được sản sinh cho mục đích lao động, rằng nòi này phải được cho nhân giống có kiểm soát chặt chẽ để loại trừ các nhược điểm. Những người chỉ trích cho rằng việc cho nhân giống thiếu cẩn trọng đã tạo điều kiện cho bệnh tật và các khiếm khuyết khác nảy sinh. Tại chương trình nhân giống dưới sự chỉ đạo của von Stephanitz, các khiếm khuyết nhanh chóng bị loại bỏ; còn hiện tại, do không có qui chế chặt chẽ kiểm soát việc nhân giống, những vấn đề về gene như nhạt màu, lệch xương chậu, thiếu tinh hoàn, thiếu thần sắc, thiếu răng, trở nên phổ biến, cũng như việc tai gãy hay gập xuống, thậm chí khi chó đã trưởng thành.
I - Lịch sử
1. Nguồn gốc
Tại châu Âu trong những năm 1800, người ta thử tiến hành chuẩn hóa các chủng loại chó. Các nòi chó được lai tạo ra để có các đặc trưng phù hợp cho việc chăn gia súc, bảo vệ chúng khỏi thú dữ tấn công. Tại Đức, việc này được tiến hành tại nhiều địa phương, nơi người ta lựa chọn các chú chó chăn cừu và cho sinh sản chó con mà người ta cho là có các đặc tính tốt, cần thiết cho việc chăn cừu, như là thông minh, nhanh nhẹn, khỏe, và thính mùi. Kết quả là sản sinh ra nhiều con chó có khả năng thực hiện rất tốt nhiệm vụ, nhưng rất khác nhau, cả về hình dáng và khả năng, ở từng địa phương.
Chó chăn cừu Đức, con cái (bên trái) và con đực (bên phải)
Để giải quyết vấn đề đó, Hiệp hội Phylax được thành lập năm 1891 với tiêu chí thiết lập tiêu chuẩn cho các nòi chó được lai tạo tại Đức. Hiệp hội giải tán chỉ sau ba năm hoạt động, vì những cuộc đấu đá trong nội bộ liên quan đến việc liệu tiêu chí nào nên được khuyến khích; với một số thành viên chủ trương phát triển giống chó chỉ để lao động, còn một số thành viên khác thì lại cho rằng cần cả hình thức nữa. Dù không đạt được mục đích của mình, Hiệp hội Phylax cũng đã truyền cảm hứng cho một số người theo đuổi việc chuẩn hóa nòi chó một cách độc lập.
Một người gác đêm Đức với chú chó chăn cừu, 1950
Một trong số các thành viên có lập trường như vậy là Max von Stephanitz, nguyên là đại úy kị binh và cựu sinh viên trường Đại học thú y Berlin.
Năm 1899, Von Stephanitz tham dự một cuộc triển lãm chó, tại đó ông thấy một chú chó tên là Hektor Linksrhein. Hektor là kết quả của việc chọn lọc qua nhiều đời, và hoàn toàn phù hợp với những gì mà Von Stephanitz tin tưởng chó lao động cần có. Ông hoàn toàn thỏa mãn với sức lực của con chó này, và hoàn toàn bị chinh phục bởi sự thông minh và trung thành của nó, nên ngay lập tức ông hỏi mua nó. Ông đổi tên nó thành Horand von Grafrath và Von Stephanitz thành lập Verein für Deutsche Schäferhunde (Hội chó chăn cừu Đức). Horand được chọn để làm con chó nòi chăn cừu Đức đầu tiên, và là con chó đầu tiên được đăng ký bởi hiệp hội.
Horand trở thành trung tâm của chương trình lai tạo, và được phối giống với những con chó có các đặc tính tốt của các hội viên khác. Dù sinh ra nhiều chó con, nhưng chó con nổi bật nhất của nó là Hektor von Schwaben. Hektor được cho phối giống lẫn với những chó con khác của Horand và sinh ra Beowulf, chú chó sau này cho ra đời tổng cộng 84 chó con, phần lớn qua phối giống với những con cháu khác của Hektor. Chó dòng dõi từ Beowulf cũng được cho lai cùng dòng, và từ con cháu của nó sinh ra dòng chó chăn cừu Đức. Người ta tin rằng thành công của hiệp hội phần lớn nhờ vào tài lãnh đạo mạnh mẽ, không nhân nhượng của Von Stephanitz, và ông như vậy là người khai sinh ra dòng chó chăn cừu Đức.
2. Độ ưa chuộng
Khi Câu lạc bộ Kennel Anh nhận đăng ký nòi này năm 1919, có 54 chú chó được đăng ký, và tới năm 1926, đã có tổng cộng 8.000 chú chó. Nòi chó này lần đầu được ghi nhận trên thế giới khi Đại chiến thế giới lần thứ nhất đi đến hồi kết, các binh lính trở về nhà hết sức khen ngợi giống chó này. Các chú chó diễn viên như Rin Tin Tin và Strongheart càng làm giống này được ưa chuộng. Chú chó chăn cừu Đức đầu tiên được đăng ký tại Hoa Kỳ là Nữ hoàng Thụy Sỹ; tuy nhiên các chó con mà nó sinh ra không được hoàn hảo, kết quả của việc nhân giống tồi, khiến cho giống chó này mất đi sự ưa chuộng trong nửa cuối những năm 1920. Sự ưa chuộng với nòi chó này tăng lên sau khi chú chó Sieger Pfeffer von Bern đoạt giải Grand Victor trong các năm 1937 và 1938 Grand Victor tại các cuộc triển lãm chó của câu lạc bộ American Kennel, rồi lại giảm đi khi Đại chiến thế giới lần thứ hai kết thúc, kết quả của tinh thần bài Đức khi đó. Thời gian trôi đi, độ ưa chuộng của giống chó này tăng lên, cho tới năm 1993, chúng trở thành giống chó được ưa chuộng thứ ba tại Hoa Kỳ. Tới năm 2009, nòi chó này là nòi chó được ưa chuộng thứ nhì tại Mỹ. Thêm vào đó, giống chó này thường là giống chó được ưa chuộng nhất tại các nước khác. Chó chăn cừu Đức có hình thể rất thích hợp cho khả năng vận động. Chúng thường tranh tài trong các cuộc trình diễn và thử sức 'biểu diễn nhanh nhẹn'.
3. Tên gọi
Giống chó này được gọi là Deutscher Schäferhund bởi Von Stephanitz, dịch là "chó chăn cừu Đức". Giống chó này có tên gọi như vậy vì mục đích ban đầu là tạo ra một giống chó để giúp chăn và bảo vệ cừu. Cùng với thời gian, những giống chó chăn súc vật khác ở Đức cũng được gọi bằng tên này, thì người ta gọi chúng là Altdeutsche Schäferhunde hoặc chó chăn cừu cổ. Chó chăn cừu lần đầu tiên được xuất sang Anh năm 1908, và Câu lạc bộ Kennel Anh bắt đầu ghi nhận giống này năm 1919.
Tên gọi này được sử dụng trong đăng ký chính thức, tuy nhiên tới cuối Đại chiến thế giới II, người ta ngại rằng việc dùng tên Đức sẽ làm ảnh hưởng xấu đến giống chó này, do tinh thần bài Đức thời đó. Giống chó này do vậy được Câu lạc bộ Kennel gọi là "chó-sói Alsace ", và được nhiều câu lạc bộ chó quốc tế khác chấp nhận. Cuối cùng thì tên ghép "chó-sói" cũng được ngưng sử dụng. Tên gọi Alsace tồn tại trong năm thập kỷ, cho tới năm 1977, khi những người yêu thích chó cũng thành công trong việc gây sức ép lên câu lạc bộ chó ở Anh để giống này được đăng ký trở lại với tên gọi chó chăn cừu Đức.
4. Thời hiện đại
Chó chăn cừu Đức hiện đại bị chỉ trích là đã đi trệch hướng so với ý tưởng ban đầu của von Stephanitz cho giống này: rằng chó chăn cừu Đức chỉ được sản sinh cho mục đích lao động, rằng nòi này phải được cho nhân giống có kiểm soát chặt chẽ để loại trừ các nhược điểm. Những người chỉ trích cho rằng việc cho nhân giống thiếu cẩn trọng đã tạo điều kiện cho bệnh tật và các khiếm khuyết khác nảy sinh. Tại chương trình nhân giống dưới sự chỉ đạo của von Stephanitz, các khiếm khuyết nhanh chóng bị loại bỏ; còn hiện tại, do không có qui chế chặt chẽ kiểm soát việc nhân giống, những vấn đề về gene như nhạt màu, lệch xương chậu, thiếu tinh hoàn, thiếu thần sắc, thiếu răng, trở nên phổ biến, cũng như việc tai gãy hay gập xuống, thậm chí khi chó đã trưởng thành.
Relate Threads
Latest Threads