dichvu113678
Thành viên Mới
- Tham gia
- 4 Tháng năm 2016
- Bài viết
- 1
- Điểm tương tác
- 0
- Điểm
- 1
- Tuổi
- 26
Sốt xuất huyết: căn do, triệu chứng và cách điều trị
Sốt xuất huyết dengue (dengue hemorrhagic fever, DHF hay Sốt dengue (dengue fever, DF, đọc là đăng-gi) , tại Việt Nam thường được gọi chung là bệnh sốt xuất huyết, có tả nặng nhất của bệnh là hội chứng sốc dengue (dengue shock syndrome, DSS) được gây ra do Dengue virus (chi Flavivirus, họ Flaviviridae).Sốt xuất huyết: nguyên cớ, triệu chứng và cách điều trị
Sốt xuất huyết dengue (dengue hemorrhagic fever, DHF hay Sốt dengue (dengue fever, DF, đọc là đăng-gi) , tại Việt Nam thường được gọi chung là bệnh sốt xuất huyết, có tả nặng nhất của bệnh là hội chứng sốc dengue (dengue shock syndrome, DSS) được gây ra do Dengue virus (chi Flavivirus, họ Flaviviridae).Virus này có 4 chủng huyết thanh khác nhau là DEN-1, DEN-2, DEN-3 và DEN-4. Bệnh nhân nhiễm với chủng virus nào thì chỉ có khả năng tạo nên miễn nhiễm suốt đời với chủng virus đó mà thôi. Chính vì thế mà những người sống trong vùng lưu hành dịch dengue có thể mắc bệnh sốt xuất huyết nhiều hơn một lần trong đời. Sốt dengue và sốt xuất huyết dengue cốt là bệnh ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Nhiễm virus dengue gây nên triệu chứng lâm sàng khác nhau tùy từng cá thể. Bệnh có thể chỉ trình bày nhưmột hội chứng nhiễm virus không đặc hiệu hoặc bệnh lý xuất huyết trầm trọng và đưa đến tử vong . Trong bài này, thuật ngữ dengue được sử dụng để chỉ chung cho ba thể bệnh nêu trên. Khi nói đến từng thể biệt lập thì tên xác thực của thể bệnh đó sẽ được sử dụng.Có thể nói dengue là một bệnh do virus lây nhiễm do muỗi thường gặp nhất ở người. Trong những năm gần đây bệnh đã trở thành mối quan ngại lớn đối với sức khỏe cộng đồng trên mặt quốc tế. Trên toàn thế giới có khoảng 2,5 tỷ người hiện đang sống trong vùng có lưu hành bệnh. Sự lan tràn về mặt địa lý của cả véc tơ truyền bệnh (muỗi) và virus đã đưa đến sự tăng cao tỷ lệ bệnh trong vòng 25 năm qua cũng như khả năng xuất hiện dịch do nhiều chủng huyết thanh khác nhau ở các tỉnh thành trong vùng nhiệt đới.I. DỊCH TỄ HỌC:Những trận dịch trước nhất đã được ghi nhận xảy ra vào những năm từ 1778-1780 ở châu Á, châu Phi và Bắc Mỹ. Sự xuất hiện gần như song song của các trận dịch trên ba đất liền khác nhau chứng tỏ rằng virus gây bệnh cũng như véc tơ truyền bệnh đã phân bố rộng rãi trên toàn thế giới từ hơn 200 năm trước. Trong thời gian này dengue chỉ được xem là bệnh nhẹ. Một vụ đại dịch dengue xuất hiện ở Đông Nam Á sau Chiến tranh thế giới thứ II và từ đó lan rộng trên toàn cầu. Cũng ở khu vực Đông Nam Á, dengue lần trước hết được phát hiện ở Philippines vào năm 1950 nhưng đến năm 1970 bệnh đã trở nên nguyên do nhập viện và tử vong thường gặp ở con nít trong vùng này .II. XU HƯỚNG MẮC BỆNH:Tỉ lệ mắc bệnh trên toàn thế giới đã gia tăng mạnh mẽ trong những năm gần đây. Bệnh này hiện đã trở thành dịch tại trên 100 quốc gia ở châu Phi, châu Mỹ, khu vực phía Đông Địa Trung Hải, Đông Nam Á và Tây yên bình Dương. Đông Nam Á và Tây thanh bình Dương là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Trước năm 1970, chỉ có 9 quốc gia có dịch lưu hành. Con số này tăng lên gấp hơn 4 lần vào năm 1995. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước lượng mỗi năm có khoảng 50 đến 100 triệu người mắc bệnh. Không chỉ có số trường hợp mắc bệnh gia tăng mà khả năng nhiễm nhiều loại virus khác nhau cũng càng ngày càng đáng báo động. Sau đây là một vài con số thống kê khác : background-clip: initial; background-color: initial; line-height: 21px; background-position: 18px 8px; background-repeat: no-repeat no-repeat; ">Mỗi năm có khoảng 500.000 trường hợp sốt xuất huyết dengue cần nhập viện, phần nhiều trong số đó là trẻ thơ. Tỉ lệ tử vong làng nhàng vào khoảng 2,5%.Nếu không được điều trị, tỉ lệ tử vong của sốt xuất huyết dengue có thể vượt quá 20%. Với phương thức điều trị hăng hái hiện đại, tỉ lệ tử vong có thể thấp hơn 1%.III. nguyên do MẮC BỆNH SỐT XUẤT HUYẾT:Người nhiễm virus dengue do muỗi cái thuộc chi Aedes đốt. Muỗi Aedes aegypti là véc tơ truyền bệnh chính yếu ở hồ hết các khu vực bệnh lưu hành. Muỗi Aedes aegypti hoạt động vào ban ngày và chỉ có muỗi cái mới đốt người và truyền bệnh. Khi muỗi cái Aedes hút máu bệnh nhân nhiễm virus dengue, virus này sẽ ủ bệnh trong cơ thể muỗi khoảng 8 đến 11 ngày. Trong khoảng thời kì sống còn lại sau đó, muỗi có nguy cơ truyền bệnh cho người. Khi virus vào thân thể người, chúng tuần hoàn trong máu từ 2 đến 7 ngày. Trong khoảng thời kì này nếu muỗi Aedes hút máu thì virus được truyền cho muỗi.người là ổchứa virus chính. ngoại giả người ta mới phát hiện ởMalaysia có loài khỉsống ởcác khu rừng nhiệt đới cũng mang virus dengue. Aedes aegypti có cội nguồn từchâu Phi. Loài muỗi này dần dần lan tràn ra hầu hết các khu vực có khí hậu nhiệt đới trước nhất là nhờtàu thuyền và sau đó có thểcảmáy bay nữa . hiện tại có hai loài phụcủa Aedes aegypti là Aedes aegypti queenslandensis, một dạng hoang dại ởchâu Phi không phải là véc tơtruyền bệnh chính, và Aedes aegypti formosuslà muỗi sống ởkhu vực đô thịvùng nhiệt đới và là véc tơ truyền bệnh chính. Trong quá vãng, muỗi Aedes aegypti phải nhờvào các vũng nước mưa đểđẻtrứng. Tuy nhiên hiện tại quá trình đô thịhóa diễn ra với tốc độồạt đang cung cấp cho muỗi những hồnước nhân tạo đểmuỗi đẻtrứng dễdàng hơn nhiều.Aedes albopictus trước đây là véc tơ truyền bệnh chính của dengue và hiện vẫn còn là véc tơ quan yếu ở châu Á. Loài muỗi này gần đây đã lan tràn đến khu vực Trung Mỹ, Hoa Kỳ và tại đây muỗi này là véc tơ truyền bệnh quan trọng thứ hai. Trong khi muỗi Aedes aegypti formosus chính yếu sống ở khu vực đô thị thì muỗi Aedes albopictus lại ngụ cốt ở vùng nông thôn. Muỗi Aedes aegypti không truyền virus qua trứng, trong khi muỗi Aedes albopictus thì có khả năng này.IV. SINH LÝ CỦA BỆNH:Nhiễm virus dengue thường không có diễn đạt rõ ràng. Sốt dengue cổ điển (thể nhẹ) cốt xuất hiện ở người lần đầu mắc bệnh, chưa có miễn dịch. Sốt xuất huyết dengue/Hội chứng sốc dengue (thể nặng) thường xảy ra trong lần nhiễm trùng sau, khi bệnh nhân đã có sẵn miễn dịch chủ động (do đã bị bệnh) hoặc tiêu cực (do mẹ truyền sang) đối với một loại huyết thanh khác. Bệnh thường bộc lộ nặng đột ngột sau 2 đến 5 ngày (tuổi hạ sốt). Các phức hợp kháng nguyên-kháng thể lưu hành trong máu, sự hoạt hóa hệ thống bổ thể và phóng thích các chất hoạt mạch có thể gây nên tăng tính thấm mao mạch đối với huyết tương, xuất huyết và có thể là đông máu nội mạch lan tỏa. Trong quá trình đào thải miễn nhiễm của các tế bào nhiễm virus, các protease và lymphokine được giải phóng gây hoạt hóa hệ thống bổ thể cũng như các nguyên tố tăng tính thấm thành mạch.iễn dịch tăng cường bệnh: Một số nhà nghiên cứu đưa ra giả thiết rằng “thể nặng của bệnh là sốt xuất huyết dengue/hội chứng sốc dengue xảy ra khi một người đã nhiễm bệnh trong kí vãng bởi một loại huyết thanh virus nay lại nhiễm một loại huyết thanh virus khác”. giả thiết này được củng cố bởi các ghi nhận lâm sàng rằng sốt xuất huyết dengue gặp chính yếu ở những người đã ít nhất một lần mắc bệnh trước đó và sốt xuất huyết dengue xảy ra luôn hơn ở các cư dân trong vùng dịch lưu hành hơn là các du khách mắc bệnh tại nơi này trong cùng thời điểm. Nếu giả thiết này là đúng hoàn toàn thì việc lưu chuyển các loại huyết thanh virus khác nhau từ vùng này đến vùng khác trên thế giới sẽ càng ngày càng gây nên tình trạng bệnh nặng nề hơn trong tương laiNhư vậy nguyên tố nguy cơ gây bệnh nặng trong sốt xuất huyết dengue là người sẵn có kháng thể kháng lại một loại huyết thanh đã gây bệnh trước đó, chủng virus gây bệnh, trẻ nhỏ hơn 12 tuổi, nữ giới và người Caucasian (da trắng).V. TRIỆU CHỨNG VÀ CHUẨN ĐOÁN:Triệu chứng1. Thời kỳ ủ bệnh:3 – 6 ngày, một số trường hợp có thể kéo dài đến 15 ngày.2. Sốt dengueriệu chứng thường xuất hiện đột ngột với sốt cao, người mệt mỏi rũ rượi, nhức đầu, đau sau hốc mắt, đau cơ (đau dây lưng và thỉnh thoảng đau chân), thường kèm theo đau họng, buồn nôn, nôn mửa, đau vùng thượng vị và đi tả.Ở trẻ con, đau họng và đau bụng thường là những triệu chứng trội. Hạ sốt xuất hiện vào ngày thứ 3 đến ngày thứ 8 thường kèm bộc lộ xuất huyết nhẹ (chấm xuất huyết dưới da, nốt xuất huyết và chảy máu mũi). Sau khi hạ sốt thường xuất hiện ban dạng dát sẩn đa hình thái, thỉnh thoảng gây ngứa, trước tiên ở thân mình và lan rộng theo hướng ly tâm đến các chi, mặt, lòng bàn tay và lòng bàn chân. Một số trường hợp có thể bệnh có thể tiến triển đến xuất huyết tiêu hóa và sốc. Như vậy trình bày xuất huyết không chỉ sốt xuất huyết dengue mới có (6).3. Sốt xuất huyết denguetuổi sớm của bệnh không thể phân biệt được với sốt dengue. Tuy nhiên thường sau từ 2 đến 5 ngày, nghĩa là vào thời đoạn hạ sốt, một số trường hợp nhiễm trùng đầu tiên và phần nhiều các nhiễm trùng thứ phát sau khi đã nhiễm một loại huyết thanh khác có tả hạ tiểu cầu (< 100.000/mm³) và cô đặc máu. Thường thì giảm tiểu cầu xảy ra trước cô đặc máu. Biểu hiện xuất huyết có thể xảy ra hoặc không. Các biểu hiện xuất huyết thường gặp trong sốt xuất huyết dengue gồm xuất huyết dưới da tự phát hoặc sau tiêm chích, chảy máu chân răng, chảy máu mũi và xuất huyết tiêu hóa. Lá lách thường không lớn. Nếu gan lớn và đau thì đây là những dấu hiệu bệnh nặng. Các biểu hiện khác có thể gồm tràn dịch màng phổi, giảm protein máu, bệnh lý não với dịch não tủy bình thường (6).Tính thấm mao quản gia tăng, với hậu quả thoát huyết tương ra ngoài khoang dịch kẽ với lượng lớn, là căn do của tình trạng cô đặc máu. Khi bệnh nhân có đồng thời hai dấu hiệu giảm tiểu cầu và cô đặc máu thì được chẩn đoán là sốt xuất huyết dengue và được phân loại theo WHO (6):Độ I: giảm tiểu cầu kèm cô đặc máu nhưng không có chảy máu tự phát.Độ II: giảm tiểu cầu và cô đặc máu kèm theo chảy máu tự phát.Độ III: giảm tiểu cầu và cô đặc máu, huyết động không ổn định: mạch lăm tăm, huyết áp kẹp (hiệu số huyết áp tâm thu – áp huyết tâm trương < 20 mm Hg), tay chân lạnh, tinh thần lú lẫn.Độ IV: giảm tiểu cầu và cô đặc máu, sốc thể hiện rõ: bệnh nhân không có mạch ngoại biên, áp huyết = 0 mm Hg.Nếu được điều trị thoát sốc thì bệnh nhân lành bệnh mau chóng và rất hiếm có di chứng (6).Chẩn đoánChẩn đoán duyên do là cực kỳ quan trọng và cần thiết nếu xét trên phương diện sức khỏe cộng đồng nhưng lại có vẻ là không cấp thiết cho việc thiết lập một chế độ điều trị hỗ trợ sớm cho bệnh nhân. Chẩn đoán dengue thường dựa vào các nguyên tố dịch tễ, diễn đạt lâm sàng như tả ở trên cũng như dựa vào các xét nghiệm đơn giản: số lượng bạch huyết cầu, số lượng tiểu cầu và hematocrit.Số lượng bạch huyết cầu trong máu ngoại vi: dengue xuất huyết thường có giảm bạch huyết cầu. Trường hợp tăng bạch cầu và tăng bạch cầu trung tính thường là cơ sở để loại trừ dengue xuất huyết.Giảm tiểu cầu (< 100.000/mm³): cần làm số lượng tiểu cầu ở bất kỳ bệnh nhân nào nghi ngờ sốt xuất huyết dengue. Tiểu cầu càng giảm, nguy cơ xuất huyết càng cao.Hematocrit: khi giá trị hematocrit tăng trên 20% so với trị số bình thường trước đó thì bệnh nhân được coi là có cô đặc máu. Đây là một tiêu chuẩn chẩn đoán sốt xuất huyết dengue. Nếu không biết được giá trị hematocrit thường nhật của bệnh nhân thì có thể xem giá trị > 45% là mốc chẩn đoán (6).Một số xét nghiệm khác nhằm đánh giá chừng độ bệnh: điện giải đồ, khí máu, chức năng đông máu, men gan, X quang phổi nhằm phát hiện biến chứng tràn dịch màng phổi (4).Chẩn đoán nguyên cớ: có thể miêu tả mầm bệnh trong máu và huyết thanh bằng phương pháp phân lập virus, xác định kháng nguyên virus bằng các phương pháp miễn nhiễm hoặc phát hiện bộ gene của virus bằng kỹ thuật khuyếch đại chuỗi DNA (PCR).Chẩn đoán huyết thanh học duyệt phương pháp xác định IgM bằng kỹ thuật hấp phụ miễn dịch gắn kết enzyme (MAC-ELISA) ở hai mẫu máu bệnh nhân lấy cách nhau 14 ngày. Mẫu máu thứ nhất lấy trước ngày thứ 7 của bệnh cũng có thể hữu ích trong việc phân lập virus bằng cách cấy vào tế bào của muỗi Aedes albopictus. Sau đó, việc định danh vi khuẩn có thể thực hiện nhờ xét nghiệm miễn nhiễm huỳnh quang sử dụng kháng thể đơn dòng.Ở bệnh nhân tử vong, chẩn đoán có thể thực hành bằng phương pháp phân lập virus hoặc xác định kháng nguyên virus (phản ứng miễn nhiễm huỳnh quang trực tiếp) từ hai mẫu bệnh phẩm (gan, lách, hạch bạch huyết, tuyến ức).VI. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ VÀ ngừa SỐT XUẤT HUYẾT:Nguyên tắc chungVấn đề mất nước trong sốt xuất huyết dengue: không phải sốt xuất huyết dengue gây mất nước. Đây là sự lầm lẫn khá lâu dài. Bệnh dù nặng dù nhẹ vẫn không có mất nước trên lâm sàng. Cân nặng không giảm, da không khô, một số tế bào nội tạng thừa nước thấy được trên siêu âm. Thường và phần lớn bệnh nhân sốt xuất huyết dengue là đủ và thừa nước, đã đủ nước ngay lúc mới bắt đầu truyền dịch cấp cứu. Vì sao phải truyền dịch cấp cứu sốc dengue: vì bệnh nhân bị giảm thể tích tuần hoàn máu. vì sao bị giảm thể tích tuần hoàn máu, giảm khoảng 20 đến 30% thế tích: vì albumin trong máu thoát quản ra khỏi lòng mạch. Nước bình thường ra vào giữa lòng mạch với các mô và tế bào, nay không trở vào lòng mạch cho đủ nhu cầu, bởi một số lớn albumin hiện diện ngoài lòng mạch. Có thể nói bệnh siêu vi dengue gây thoát quản huyết tương, không phải là bệnh mất nước. Đây là điểm then chốt, quan trọng để sớm đổi thay tư duy điều trị.Phân cấp điều trị bệnh nhânSau đây là những gợi ý về phân cấp bệnh nhân theo tuyến điều trị trong trường hợp có dịch với lượng bênh nhân tăng cao trong cùng thời điểm. Xin lưu ý đây chỉ là những gợi ý và tuyệt đối không phải là phác đồ điều trị nên không thể vận dụng cho mọi trường hợp (6).Tiêu chuẩn điều trị tại nhà:tất những bệnh nhân Sốt dengue không có nhu cầu phải truyền dịch tĩnh mạch.Bệnh nhân Độ I có khả năng bù dịch bằng đường uống.Bệnh nhân Độ II có khả năng bù dịch bằng đường uống và không có chảy máu quan trọng.Tiêu chuẩn nhập viện trong thời gian ngắn (12 – 24 giờ):tất những trường hợp bệnh cần bù dịch qua đường tĩnh mạch.Bệnh nhân Độ I và Độ II và chẳng thể điều trị bù dịch bằng đường uống.Bệnh nhân Độ I hoặc Độ II nhưng có đau tức gan và gan lớn.sờ soạng bệnh nhân độ III.Tiêu chuẩn nhập viện trong thời gian dài (> 24 giờ):quờ quạng bệnh nhân thuộc nhóm nhập viện trong thời gian ngắn không đáp ứng điều trị bù dịch.Bệnh nhân Độ I hoặc Độ II kèm theo nhưng nguyên tố cơ địa dễ chuyển thành bệnh nặng (hen phế quản, dị ứng, đái tháo đường, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính…).Bệnh nhân Độ II hoặc Độ III và có chảy máu quan trọng.hết thảy bệnh nhân Độ IV.DỰ PHÒNGVắc xinLý tưởng nhất là có một vắc xin có thể chống lại cả bốn loại huyết thanh virus gây bệnh. Đáng tiếc là một loại huyết thanh như vậy hiện thời vẫn chưa có sẵn. Tuy nhiên đã có một nghiên cứu tại Đại học Mahidol (Thái Lan) với sự cộng tác của WHO, một vắc xin chống cả bốn loại huyết thanh virus gây bệnh đang được phát triển và hoàn thiện. Vắc xin này tỏ ra an toàn và hiện đang được đưa vào dùng thí điểm trên lâm sàng (5). bây giờ vắc xin chống sốt xuất huyết cả 4 chủng huyết thanh của Dengue virus đang ở pha 2 thể nghiệm lâm sàng.Kiểm soát véc tơ truyền bệnhngày nay, kiểm soát véc tơ truyền bệnh được xem là phương pháp phòng bệnh duy nhất có hiệu quả (3). Kiểm soát các véc tơ Aedes có thể làm giảm đáng kể tỉ lệ mắc bệnh dengue. Trong những năm 1950 đến 1960 Tổ chức Y tế Toàn châu Mỹ (Pan American Health Organization) đã thành công trong việc diệt sạch Aedes aegypti ở nhiều vùng thuộc Trung và Nam Mỹ, và trong thời kì này các vụ dịch dengue rất hiếm ở châu Mỹ. Tuy nhiên sau khi chương trình ngừng lại thì Aedes aegypti và sau đó là dengue tái xuất hiện.Phương pháp chính để kiểm soát số luợng muỗi Aedes là giảm thiểu các khu vực có nước đọng, là nơi đẻ trứng của muỗi. Đậy kín các công cụ chứa nước, giảm tối đa các vật dụng có thể chứa nước mưa (lốp xe cũ, chén bát cũ…), hay nước sạch như bình bông, bàn cầu trong các phòng rỗng có người ở, hầm nước ở các chung cư . Có thể dùng các loại sinh vật trong nước tiêu diệt trứng của muỗi. Khi có dịch thì đôi khi phải cần đến phun thuốc diệt muỗi trên diện rộng.Cũng giống như quờ các bệnh lây truyền do arbovirus khác, các phương pháp bảo hộ cá nhân như mang tất, vớ dài, dùng thuốc xua muỗi, tránh nhưng nơi có mật độ véc tơ truyền bệnh cao có tác dụng tốt nhất. Một điểm đặc biệt là muỗi Aedes aegypti hoạt động vào ban ngày nên có biện pháp phòng tránh khác so với các loại muỗi chỉ hoạt động ban đêm như Anophele và Culex.Khi mắc các triệu chứng trên bạn có thể liên hệ Phòng khám Đa Khoa Quốc Tế Thanh Chân, địa chỉ Số 6, đường Nguyễn Thị Thập, KĐT Trung Hoà Nhân Chính, Quận Cầu Giấy, Hà Nội
Sốt xuất huyết dengue (dengue hemorrhagic fever, DHF hay Sốt dengue (dengue fever, DF, đọc là đăng-gi) , tại Việt Nam thường được gọi chung là bệnh sốt xuất huyết, có tả nặng nhất của bệnh là hội chứng sốc dengue (dengue shock syndrome, DSS) được gây ra do Dengue virus (chi Flavivirus, họ Flaviviridae).Sốt xuất huyết: nguyên cớ, triệu chứng và cách điều trị
Sốt xuất huyết dengue (dengue hemorrhagic fever, DHF hay Sốt dengue (dengue fever, DF, đọc là đăng-gi) , tại Việt Nam thường được gọi chung là bệnh sốt xuất huyết, có tả nặng nhất của bệnh là hội chứng sốc dengue (dengue shock syndrome, DSS) được gây ra do Dengue virus (chi Flavivirus, họ Flaviviridae).Virus này có 4 chủng huyết thanh khác nhau là DEN-1, DEN-2, DEN-3 và DEN-4. Bệnh nhân nhiễm với chủng virus nào thì chỉ có khả năng tạo nên miễn nhiễm suốt đời với chủng virus đó mà thôi. Chính vì thế mà những người sống trong vùng lưu hành dịch dengue có thể mắc bệnh sốt xuất huyết nhiều hơn một lần trong đời. Sốt dengue và sốt xuất huyết dengue cốt là bệnh ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Nhiễm virus dengue gây nên triệu chứng lâm sàng khác nhau tùy từng cá thể. Bệnh có thể chỉ trình bày nhưmột hội chứng nhiễm virus không đặc hiệu hoặc bệnh lý xuất huyết trầm trọng và đưa đến tử vong . Trong bài này, thuật ngữ dengue được sử dụng để chỉ chung cho ba thể bệnh nêu trên. Khi nói đến từng thể biệt lập thì tên xác thực của thể bệnh đó sẽ được sử dụng.Có thể nói dengue là một bệnh do virus lây nhiễm do muỗi thường gặp nhất ở người. Trong những năm gần đây bệnh đã trở thành mối quan ngại lớn đối với sức khỏe cộng đồng trên mặt quốc tế. Trên toàn thế giới có khoảng 2,5 tỷ người hiện đang sống trong vùng có lưu hành bệnh. Sự lan tràn về mặt địa lý của cả véc tơ truyền bệnh (muỗi) và virus đã đưa đến sự tăng cao tỷ lệ bệnh trong vòng 25 năm qua cũng như khả năng xuất hiện dịch do nhiều chủng huyết thanh khác nhau ở các tỉnh thành trong vùng nhiệt đới.I. DỊCH TỄ HỌC:Những trận dịch trước nhất đã được ghi nhận xảy ra vào những năm từ 1778-1780 ở châu Á, châu Phi và Bắc Mỹ. Sự xuất hiện gần như song song của các trận dịch trên ba đất liền khác nhau chứng tỏ rằng virus gây bệnh cũng như véc tơ truyền bệnh đã phân bố rộng rãi trên toàn thế giới từ hơn 200 năm trước. Trong thời gian này dengue chỉ được xem là bệnh nhẹ. Một vụ đại dịch dengue xuất hiện ở Đông Nam Á sau Chiến tranh thế giới thứ II và từ đó lan rộng trên toàn cầu. Cũng ở khu vực Đông Nam Á, dengue lần trước hết được phát hiện ở Philippines vào năm 1950 nhưng đến năm 1970 bệnh đã trở nên nguyên do nhập viện và tử vong thường gặp ở con nít trong vùng này .II. XU HƯỚNG MẮC BỆNH:Tỉ lệ mắc bệnh trên toàn thế giới đã gia tăng mạnh mẽ trong những năm gần đây. Bệnh này hiện đã trở thành dịch tại trên 100 quốc gia ở châu Phi, châu Mỹ, khu vực phía Đông Địa Trung Hải, Đông Nam Á và Tây yên bình Dương. Đông Nam Á và Tây thanh bình Dương là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Trước năm 1970, chỉ có 9 quốc gia có dịch lưu hành. Con số này tăng lên gấp hơn 4 lần vào năm 1995. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước lượng mỗi năm có khoảng 50 đến 100 triệu người mắc bệnh. Không chỉ có số trường hợp mắc bệnh gia tăng mà khả năng nhiễm nhiều loại virus khác nhau cũng càng ngày càng đáng báo động. Sau đây là một vài con số thống kê khác : background-clip: initial; background-color: initial; line-height: 21px; background-position: 18px 8px; background-repeat: no-repeat no-repeat; ">Mỗi năm có khoảng 500.000 trường hợp sốt xuất huyết dengue cần nhập viện, phần nhiều trong số đó là trẻ thơ. Tỉ lệ tử vong làng nhàng vào khoảng 2,5%.Nếu không được điều trị, tỉ lệ tử vong của sốt xuất huyết dengue có thể vượt quá 20%. Với phương thức điều trị hăng hái hiện đại, tỉ lệ tử vong có thể thấp hơn 1%.III. nguyên do MẮC BỆNH SỐT XUẤT HUYẾT:Người nhiễm virus dengue do muỗi cái thuộc chi Aedes đốt. Muỗi Aedes aegypti là véc tơ truyền bệnh chính yếu ở hồ hết các khu vực bệnh lưu hành. Muỗi Aedes aegypti hoạt động vào ban ngày và chỉ có muỗi cái mới đốt người và truyền bệnh. Khi muỗi cái Aedes hút máu bệnh nhân nhiễm virus dengue, virus này sẽ ủ bệnh trong cơ thể muỗi khoảng 8 đến 11 ngày. Trong khoảng thời kì sống còn lại sau đó, muỗi có nguy cơ truyền bệnh cho người. Khi virus vào thân thể người, chúng tuần hoàn trong máu từ 2 đến 7 ngày. Trong khoảng thời kì này nếu muỗi Aedes hút máu thì virus được truyền cho muỗi.người là ổchứa virus chính. ngoại giả người ta mới phát hiện ởMalaysia có loài khỉsống ởcác khu rừng nhiệt đới cũng mang virus dengue. Aedes aegypti có cội nguồn từchâu Phi. Loài muỗi này dần dần lan tràn ra hầu hết các khu vực có khí hậu nhiệt đới trước nhất là nhờtàu thuyền và sau đó có thểcảmáy bay nữa . hiện tại có hai loài phụcủa Aedes aegypti là Aedes aegypti queenslandensis, một dạng hoang dại ởchâu Phi không phải là véc tơtruyền bệnh chính, và Aedes aegypti formosuslà muỗi sống ởkhu vực đô thịvùng nhiệt đới và là véc tơ truyền bệnh chính. Trong quá vãng, muỗi Aedes aegypti phải nhờvào các vũng nước mưa đểđẻtrứng. Tuy nhiên hiện tại quá trình đô thịhóa diễn ra với tốc độồạt đang cung cấp cho muỗi những hồnước nhân tạo đểmuỗi đẻtrứng dễdàng hơn nhiều.Aedes albopictus trước đây là véc tơ truyền bệnh chính của dengue và hiện vẫn còn là véc tơ quan yếu ở châu Á. Loài muỗi này gần đây đã lan tràn đến khu vực Trung Mỹ, Hoa Kỳ và tại đây muỗi này là véc tơ truyền bệnh quan trọng thứ hai. Trong khi muỗi Aedes aegypti formosus chính yếu sống ở khu vực đô thị thì muỗi Aedes albopictus lại ngụ cốt ở vùng nông thôn. Muỗi Aedes aegypti không truyền virus qua trứng, trong khi muỗi Aedes albopictus thì có khả năng này.IV. SINH LÝ CỦA BỆNH:Nhiễm virus dengue thường không có diễn đạt rõ ràng. Sốt dengue cổ điển (thể nhẹ) cốt xuất hiện ở người lần đầu mắc bệnh, chưa có miễn dịch. Sốt xuất huyết dengue/Hội chứng sốc dengue (thể nặng) thường xảy ra trong lần nhiễm trùng sau, khi bệnh nhân đã có sẵn miễn dịch chủ động (do đã bị bệnh) hoặc tiêu cực (do mẹ truyền sang) đối với một loại huyết thanh khác. Bệnh thường bộc lộ nặng đột ngột sau 2 đến 5 ngày (tuổi hạ sốt). Các phức hợp kháng nguyên-kháng thể lưu hành trong máu, sự hoạt hóa hệ thống bổ thể và phóng thích các chất hoạt mạch có thể gây nên tăng tính thấm mao mạch đối với huyết tương, xuất huyết và có thể là đông máu nội mạch lan tỏa. Trong quá trình đào thải miễn nhiễm của các tế bào nhiễm virus, các protease và lymphokine được giải phóng gây hoạt hóa hệ thống bổ thể cũng như các nguyên tố tăng tính thấm thành mạch.iễn dịch tăng cường bệnh: Một số nhà nghiên cứu đưa ra giả thiết rằng “thể nặng của bệnh là sốt xuất huyết dengue/hội chứng sốc dengue xảy ra khi một người đã nhiễm bệnh trong kí vãng bởi một loại huyết thanh virus nay lại nhiễm một loại huyết thanh virus khác”. giả thiết này được củng cố bởi các ghi nhận lâm sàng rằng sốt xuất huyết dengue gặp chính yếu ở những người đã ít nhất một lần mắc bệnh trước đó và sốt xuất huyết dengue xảy ra luôn hơn ở các cư dân trong vùng dịch lưu hành hơn là các du khách mắc bệnh tại nơi này trong cùng thời điểm. Nếu giả thiết này là đúng hoàn toàn thì việc lưu chuyển các loại huyết thanh virus khác nhau từ vùng này đến vùng khác trên thế giới sẽ càng ngày càng gây nên tình trạng bệnh nặng nề hơn trong tương laiNhư vậy nguyên tố nguy cơ gây bệnh nặng trong sốt xuất huyết dengue là người sẵn có kháng thể kháng lại một loại huyết thanh đã gây bệnh trước đó, chủng virus gây bệnh, trẻ nhỏ hơn 12 tuổi, nữ giới và người Caucasian (da trắng).V. TRIỆU CHỨNG VÀ CHUẨN ĐOÁN:Triệu chứng1. Thời kỳ ủ bệnh:3 – 6 ngày, một số trường hợp có thể kéo dài đến 15 ngày.2. Sốt dengueriệu chứng thường xuất hiện đột ngột với sốt cao, người mệt mỏi rũ rượi, nhức đầu, đau sau hốc mắt, đau cơ (đau dây lưng và thỉnh thoảng đau chân), thường kèm theo đau họng, buồn nôn, nôn mửa, đau vùng thượng vị và đi tả.Ở trẻ con, đau họng và đau bụng thường là những triệu chứng trội. Hạ sốt xuất hiện vào ngày thứ 3 đến ngày thứ 8 thường kèm bộc lộ xuất huyết nhẹ (chấm xuất huyết dưới da, nốt xuất huyết và chảy máu mũi). Sau khi hạ sốt thường xuất hiện ban dạng dát sẩn đa hình thái, thỉnh thoảng gây ngứa, trước tiên ở thân mình và lan rộng theo hướng ly tâm đến các chi, mặt, lòng bàn tay và lòng bàn chân. Một số trường hợp có thể bệnh có thể tiến triển đến xuất huyết tiêu hóa và sốc. Như vậy trình bày xuất huyết không chỉ sốt xuất huyết dengue mới có (6).3. Sốt xuất huyết denguetuổi sớm của bệnh không thể phân biệt được với sốt dengue. Tuy nhiên thường sau từ 2 đến 5 ngày, nghĩa là vào thời đoạn hạ sốt, một số trường hợp nhiễm trùng đầu tiên và phần nhiều các nhiễm trùng thứ phát sau khi đã nhiễm một loại huyết thanh khác có tả hạ tiểu cầu (< 100.000/mm³) và cô đặc máu. Thường thì giảm tiểu cầu xảy ra trước cô đặc máu. Biểu hiện xuất huyết có thể xảy ra hoặc không. Các biểu hiện xuất huyết thường gặp trong sốt xuất huyết dengue gồm xuất huyết dưới da tự phát hoặc sau tiêm chích, chảy máu chân răng, chảy máu mũi và xuất huyết tiêu hóa. Lá lách thường không lớn. Nếu gan lớn và đau thì đây là những dấu hiệu bệnh nặng. Các biểu hiện khác có thể gồm tràn dịch màng phổi, giảm protein máu, bệnh lý não với dịch não tủy bình thường (6).Tính thấm mao quản gia tăng, với hậu quả thoát huyết tương ra ngoài khoang dịch kẽ với lượng lớn, là căn do của tình trạng cô đặc máu. Khi bệnh nhân có đồng thời hai dấu hiệu giảm tiểu cầu và cô đặc máu thì được chẩn đoán là sốt xuất huyết dengue và được phân loại theo WHO (6):Độ I: giảm tiểu cầu kèm cô đặc máu nhưng không có chảy máu tự phát.Độ II: giảm tiểu cầu và cô đặc máu kèm theo chảy máu tự phát.Độ III: giảm tiểu cầu và cô đặc máu, huyết động không ổn định: mạch lăm tăm, huyết áp kẹp (hiệu số huyết áp tâm thu – áp huyết tâm trương < 20 mm Hg), tay chân lạnh, tinh thần lú lẫn.Độ IV: giảm tiểu cầu và cô đặc máu, sốc thể hiện rõ: bệnh nhân không có mạch ngoại biên, áp huyết = 0 mm Hg.Nếu được điều trị thoát sốc thì bệnh nhân lành bệnh mau chóng và rất hiếm có di chứng (6).Chẩn đoánChẩn đoán duyên do là cực kỳ quan trọng và cần thiết nếu xét trên phương diện sức khỏe cộng đồng nhưng lại có vẻ là không cấp thiết cho việc thiết lập một chế độ điều trị hỗ trợ sớm cho bệnh nhân. Chẩn đoán dengue thường dựa vào các nguyên tố dịch tễ, diễn đạt lâm sàng như tả ở trên cũng như dựa vào các xét nghiệm đơn giản: số lượng bạch huyết cầu, số lượng tiểu cầu và hematocrit.Số lượng bạch huyết cầu trong máu ngoại vi: dengue xuất huyết thường có giảm bạch huyết cầu. Trường hợp tăng bạch cầu và tăng bạch cầu trung tính thường là cơ sở để loại trừ dengue xuất huyết.Giảm tiểu cầu (< 100.000/mm³): cần làm số lượng tiểu cầu ở bất kỳ bệnh nhân nào nghi ngờ sốt xuất huyết dengue. Tiểu cầu càng giảm, nguy cơ xuất huyết càng cao.Hematocrit: khi giá trị hematocrit tăng trên 20% so với trị số bình thường trước đó thì bệnh nhân được coi là có cô đặc máu. Đây là một tiêu chuẩn chẩn đoán sốt xuất huyết dengue. Nếu không biết được giá trị hematocrit thường nhật của bệnh nhân thì có thể xem giá trị > 45% là mốc chẩn đoán (6).Một số xét nghiệm khác nhằm đánh giá chừng độ bệnh: điện giải đồ, khí máu, chức năng đông máu, men gan, X quang phổi nhằm phát hiện biến chứng tràn dịch màng phổi (4).Chẩn đoán nguyên cớ: có thể miêu tả mầm bệnh trong máu và huyết thanh bằng phương pháp phân lập virus, xác định kháng nguyên virus bằng các phương pháp miễn nhiễm hoặc phát hiện bộ gene của virus bằng kỹ thuật khuyếch đại chuỗi DNA (PCR).Chẩn đoán huyết thanh học duyệt phương pháp xác định IgM bằng kỹ thuật hấp phụ miễn dịch gắn kết enzyme (MAC-ELISA) ở hai mẫu máu bệnh nhân lấy cách nhau 14 ngày. Mẫu máu thứ nhất lấy trước ngày thứ 7 của bệnh cũng có thể hữu ích trong việc phân lập virus bằng cách cấy vào tế bào của muỗi Aedes albopictus. Sau đó, việc định danh vi khuẩn có thể thực hiện nhờ xét nghiệm miễn nhiễm huỳnh quang sử dụng kháng thể đơn dòng.Ở bệnh nhân tử vong, chẩn đoán có thể thực hành bằng phương pháp phân lập virus hoặc xác định kháng nguyên virus (phản ứng miễn nhiễm huỳnh quang trực tiếp) từ hai mẫu bệnh phẩm (gan, lách, hạch bạch huyết, tuyến ức).VI. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ VÀ ngừa SỐT XUẤT HUYẾT:Nguyên tắc chungVấn đề mất nước trong sốt xuất huyết dengue: không phải sốt xuất huyết dengue gây mất nước. Đây là sự lầm lẫn khá lâu dài. Bệnh dù nặng dù nhẹ vẫn không có mất nước trên lâm sàng. Cân nặng không giảm, da không khô, một số tế bào nội tạng thừa nước thấy được trên siêu âm. Thường và phần lớn bệnh nhân sốt xuất huyết dengue là đủ và thừa nước, đã đủ nước ngay lúc mới bắt đầu truyền dịch cấp cứu. Vì sao phải truyền dịch cấp cứu sốc dengue: vì bệnh nhân bị giảm thể tích tuần hoàn máu. vì sao bị giảm thể tích tuần hoàn máu, giảm khoảng 20 đến 30% thế tích: vì albumin trong máu thoát quản ra khỏi lòng mạch. Nước bình thường ra vào giữa lòng mạch với các mô và tế bào, nay không trở vào lòng mạch cho đủ nhu cầu, bởi một số lớn albumin hiện diện ngoài lòng mạch. Có thể nói bệnh siêu vi dengue gây thoát quản huyết tương, không phải là bệnh mất nước. Đây là điểm then chốt, quan trọng để sớm đổi thay tư duy điều trị.Phân cấp điều trị bệnh nhânSau đây là những gợi ý về phân cấp bệnh nhân theo tuyến điều trị trong trường hợp có dịch với lượng bênh nhân tăng cao trong cùng thời điểm. Xin lưu ý đây chỉ là những gợi ý và tuyệt đối không phải là phác đồ điều trị nên không thể vận dụng cho mọi trường hợp (6).Tiêu chuẩn điều trị tại nhà:tất những bệnh nhân Sốt dengue không có nhu cầu phải truyền dịch tĩnh mạch.Bệnh nhân Độ I có khả năng bù dịch bằng đường uống.Bệnh nhân Độ II có khả năng bù dịch bằng đường uống và không có chảy máu quan trọng.Tiêu chuẩn nhập viện trong thời gian ngắn (12 – 24 giờ):tất những trường hợp bệnh cần bù dịch qua đường tĩnh mạch.Bệnh nhân Độ I và Độ II và chẳng thể điều trị bù dịch bằng đường uống.Bệnh nhân Độ I hoặc Độ II nhưng có đau tức gan và gan lớn.sờ soạng bệnh nhân độ III.Tiêu chuẩn nhập viện trong thời gian dài (> 24 giờ):quờ quạng bệnh nhân thuộc nhóm nhập viện trong thời gian ngắn không đáp ứng điều trị bù dịch.Bệnh nhân Độ I hoặc Độ II kèm theo nhưng nguyên tố cơ địa dễ chuyển thành bệnh nặng (hen phế quản, dị ứng, đái tháo đường, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính…).Bệnh nhân Độ II hoặc Độ III và có chảy máu quan trọng.hết thảy bệnh nhân Độ IV.DỰ PHÒNGVắc xinLý tưởng nhất là có một vắc xin có thể chống lại cả bốn loại huyết thanh virus gây bệnh. Đáng tiếc là một loại huyết thanh như vậy hiện thời vẫn chưa có sẵn. Tuy nhiên đã có một nghiên cứu tại Đại học Mahidol (Thái Lan) với sự cộng tác của WHO, một vắc xin chống cả bốn loại huyết thanh virus gây bệnh đang được phát triển và hoàn thiện. Vắc xin này tỏ ra an toàn và hiện đang được đưa vào dùng thí điểm trên lâm sàng (5). bây giờ vắc xin chống sốt xuất huyết cả 4 chủng huyết thanh của Dengue virus đang ở pha 2 thể nghiệm lâm sàng.Kiểm soát véc tơ truyền bệnhngày nay, kiểm soát véc tơ truyền bệnh được xem là phương pháp phòng bệnh duy nhất có hiệu quả (3). Kiểm soát các véc tơ Aedes có thể làm giảm đáng kể tỉ lệ mắc bệnh dengue. Trong những năm 1950 đến 1960 Tổ chức Y tế Toàn châu Mỹ (Pan American Health Organization) đã thành công trong việc diệt sạch Aedes aegypti ở nhiều vùng thuộc Trung và Nam Mỹ, và trong thời kì này các vụ dịch dengue rất hiếm ở châu Mỹ. Tuy nhiên sau khi chương trình ngừng lại thì Aedes aegypti và sau đó là dengue tái xuất hiện.Phương pháp chính để kiểm soát số luợng muỗi Aedes là giảm thiểu các khu vực có nước đọng, là nơi đẻ trứng của muỗi. Đậy kín các công cụ chứa nước, giảm tối đa các vật dụng có thể chứa nước mưa (lốp xe cũ, chén bát cũ…), hay nước sạch như bình bông, bàn cầu trong các phòng rỗng có người ở, hầm nước ở các chung cư . Có thể dùng các loại sinh vật trong nước tiêu diệt trứng của muỗi. Khi có dịch thì đôi khi phải cần đến phun thuốc diệt muỗi trên diện rộng.Cũng giống như quờ các bệnh lây truyền do arbovirus khác, các phương pháp bảo hộ cá nhân như mang tất, vớ dài, dùng thuốc xua muỗi, tránh nhưng nơi có mật độ véc tơ truyền bệnh cao có tác dụng tốt nhất. Một điểm đặc biệt là muỗi Aedes aegypti hoạt động vào ban ngày nên có biện pháp phòng tránh khác so với các loại muỗi chỉ hoạt động ban đêm như Anophele và Culex.Khi mắc các triệu chứng trên bạn có thể liên hệ Phòng khám Đa Khoa Quốc Tế Thanh Chân, địa chỉ Số 6, đường Nguyễn Thị Thập, KĐT Trung Hoà Nhân Chính, Quận Cầu Giấy, Hà Nội
Relate Threads