phoenix108
Thành Viên Tích Cực
Trong bài viết về họ Phong lan Orchidaceae nhà thực vật học người Nga Glakova (1982) đã ca ngợi "Thiên nhiên đã hào phóng tặng cho họ Phong lan một vẻ đẹp lạ thường, và tính đa dạng của hoa đã làm sửng sốt con người từ những thời xa xưa cho đến ngày nay".
Quả vậy, với 750 chi và 20. 000 - 25. 000 loài (theo A.L.Takhtajan 1987), họ Phong lan đã chiếm vị trí thứ hai - sau họ Cúc Asteraceae trong ngành Thực vật hạt kín (Magnoliophyta = Angiospermae) và là họ lớn nhất trong lớp Một lá mầm (Liliopsida = Monocotyledones). Chính vi thế, hình thái, cấu tạo cũng như hệ thống phân loại họ này hết sức đa dạng và phức tạp. Nhìn chung, họ Phong lan bao gồm các loài cây thân thảo, sống lâu năm (đôi khi hóa gỗ một phần ở gốc). Chúng hoặc sống ở đất, nơi hốc vách đá, hoặc sống phụ, sống hoại. . .
Khi sống ở đất, chúng thường có dạng củ nạc, rễ mập và xum xuê hoặc có thân rễ bò dài hay ngắn. Ở xứ lạnh, Phong lan ở đất thường có các cụm hoa màu ít sặc sỡ, sống chen lẫn với các đám cỏ ven rừng, trên các bãi hoang, hay trên các triền núi bên các bụi cây thấp. Còn các loài Phong lan sống ở đất vùng nhiệt đới thì thật đa dạng, chúng mọc ra các cụm hoa sặc sỡ, ngào ngạt hương thơm (hay hôi hám) nổi bật giữa các đám lá xanh nơi đồng cỏ, trong các cánh rừng thưa, hoặc mọc ẩn, len lỏi dưới các bụi cây của các cánh rừng ẩm ướt, thậm chí ven các đầm lầy. Các loài này tuy xa nhau về địa lý, hoàn cảnh sống, nhưng thường vẫn được xếp vào các chi chung, đặc trưng cho các chi toàn cầu là: Herminium, Liparis, Malaxis. . .
Tuy nhiên, nét độc đáo nhất của họ Phong lan là lối sống phụ (bì sinh) bám, treo lơ lửng trên vỏ các thân cây gỗ khác. Chúng phát triển các dạng thân rễ nạc, dài hay ngắn, mập hay mảnh mai, đưa cơ thể bò đi xa, hay chụm lại thành các bụi dày. Hệ rễ khí sinh ở đây vừa làm nhiệm vụ lấy nước, muối khoáng trên vỏ cây gỗ, vừa bám chặt vào giá thể để giữ cây khỏi bị gió cuốn đi, ngoài ra nó lại còn chống đỡ cho cây mọc cao vươn ra chỗ có nắng giữa đám tán cây. Hệ rễ phát triển nhiều hay ít phụ thuộc vào hình dạng chung của cả cơ thể. Ở các loài đặc trưng cho hệ thực vật châu á nhiệt đới và Australia, nhiều loài Phong lan rất nhỏ bé, hình dạng xấu xí, khó khăn lắm mới nhận được sống trong các kẽ nứt của vỏ cây gỗ, trên các cành nhánh cao tít,. Hệ rễ cũng nhỏ đan thành búi. Ngược lại, ở các loài Phong lan có kích thước lớn hay trung bình, hệ rễ khí sinh phát triển rất phong phú, nó mọc rất dài, mập mạp và khỏe cứng (vừa giữ cho cơ thể khỏi bị gió làm lung lay, vừa làm cột chống đỡ cho thân vươn cao). Để làm nhiệm vụ hấp thu chất dinh dưỡng, chúng được bao bởi một lớp mô hút ẩm dày, bao gồm những lớp tế bào chết chứa đầy không khí, do đó nó ánh lên màu xám bạc.
Với lớp mô xốp đó, rễ không những có khả năng hấp thu nước mưa chảy dọc dài trên vỏ cây gỗ, mà còn lấy được nước lơ lửng trong không khí (sương sớm hay hơi nước). Nhiều loài lại có hệ rễ đan bện thảnh một búi chằng chịt, nó là nơi thu gom mùn của vỏ cây để làm nguồn dự trữ chất dinh dưỡng. Ngược lại, ở các loài mọc bò dài, hệ rễ có thể buông thong xuống theo các đoạn thân, chúng hoặc mảnh mai, hay treo lơ lửng trong không khí như các "chòm râu hoặc mập, khỏe, kéo dài xuống tận đất và hoạt động như rễ của các loài cây' khác. Ở một số loài Phong lan có thân, lá kém phát triển (thậm chí tiêu giảm hoàn toàn), hệ rễ phát triển dày đặc và kiêm nhiệm luôn cả vai trò quang hợp. Rễ có dạng dẹt, bò rất dài màu xanh như lá.
Đặc biệt ở các loài Phong lan sống hoại, bộ rễ có hình dạng, cấu trúc khá độc đáo, Nó có dạng búi nhỏ với các vòi hút ngắn, dày đặc để có thể lấy được các chất dinh dưỡng từ đám xác thực vật thông qua hoạt động của nấm. Mặc dù sự "cộng sinh" với nấm nội sinh vốn là đặc tính sống cơ bản của cả họ Phong lan trong giai đoạn hạt nẩy mầm, nhưng chỉ ở một số loài vẫn tồn tại mối quan hệ này trong suốt cuộc đời. Các loài Phong lan này do không sinh ra các cơ quan tự dưỡng, nên vẫn phải duy trì sự giúp đỡ của nấm. Cơ thể của chúng rất nhỏ bé, mảnh mai, không có màu sắc hay mang các sắc tố khác, ngoài màu xanh. Tuy nhiên có ít loài thuộc chi lan hoại Cyrtosia, tuy sống hoại, nhưng có thể dài đến vài chục mét. Nó có khả năng leo bò rất cao, chùm lên cả các tán cây gỗ khác với các móc và vảy màu đỏ (do lá thoái hóa) (thuộc hệ thực vật châu Á nhiệt đới).
Ngược lại, có một số loài Phong lan sống hoại khác lại ẩn sâu trong lòng đất thuộc hệ thực vật Australia), ví như Rhizanthella gardneri, Cryptanthemis slateri, cơ thể chỉ có một thân nhỏ, không rễ cũng không lá. Đến mùa nó sinh ra một cụm hoa, kém phát triển. Cryptanthemis sống cách mặt đất khoảng 2 cm, còn Rhizanthella ở sâu hơn, chỉ có các cụm hoa mọc cao lên sát mặt đất mà thôi. Giống như các loài Phong lan ở trên mặt đất, không có diệp lục khác, các loài sống trong lòng đất này hoạt động được nhờ sự trợ giúp của nấm và gốc mục của các loài cây thân gỗ khác. Nấm là cầu nối giữa hai thành viên thực vật bậc cao. Nó liên kết với các gốc mục để lấy gluxít, muối khoáng, rồi sợi nấm xâm nhập qua lông trên thân của Phong lan và chuyển các chất đó vào nuôi cơ thể Phong lan.
Thân cây họ Phong lan rất ngắn hay kéo dài, đôi khi phân nhánh và mang lá hay không. Theo M. E. PrIIzer (1882) Phong lan có hai loại thân, mà đa số đều thuộc loại sinh trưởng hợp trục (nhóm không thân). Thân này gồm một hệ thống của nhiều nhánh lâu năm, với bộ phận nằm ngang, bò dài trên giá thể hoặc ẩn sâu trong lòng đất gọi là thân rễ. Thân rễ có thể nhẵn, hay có nhiều vảy che phủ (do lá thoái hóa), và một phần mọc thẳng đứng mang lá. Ngược lại rất ít khi gặp các loài Phong lan sinh trưởng đơn trục (Nhóm có thân), nghĩa là sự sinh trưởng của trục chính không giới hạn, làm cho thân rất dài. Cơ thể khó có thể duy trì được tư thế thẳng đứng, nó phải nhờ đến các rễ chống đỡ để vươn cao, nếu không nó đành phải bò dài hay leo cuốn. Dôi khi thân một số loài Phong lan rất ngắn, và bị che khuất bởi hệ thống lá hay rễ mọc thành bụi dày. Ở thân các loài Phong lan sống phụ có nhiều đoạn phình lớn thành củ giả (giả hành). Đó là bộ phận dự trữ nước, các chất dinh dưỡng để nuôi cây trong hoàn cảnh khô hạn khi sống bám trên cao. Củ giả rất đa dạng, hoặc hình cầu, thuôn dài xếp sát nhau, hay rải rác đều đặn (Lan lọng) Bulbophyllum hay hình trụ, xếp chồng chất lên nhau thành một thân giả (Lan hoàng thảo) Dendrobium, kích thước củ giả cũng rất biến động, từ dạng củ rất nhỏ, chỉ lớn bằng đầu chiếc đinh găm (Lan lọng) Bulbophyllum đến dạng hình cầu to như chiếc mũ người lớn Pecteilis susannae (Lan bạch phượng). Cấu tạo củ giả gồm nhiều mô mềm chứa đẩy dịch nhầy, phía ngoài có lớp biểu bì với vách tế bào dày, nhẵn bóng bảo vệ để tránh sự mất nước do mặt trời hun nóng. Đa số củ giả đều có màu xanh bóng, nên cùng với lá, nó cũng làm nhiệm vụ quang hợp.
Các loài Phong lan xứ lạnh, sống ở đất, củ giả lại ìàm nhiệm vụ dự trữ dinh dưỡng (nên không có màu xanh và bị vùi lấp dưới đất). Phía trên củ giả mang lá (1 hay nhiều lá). Hầu hết các loài Phong lan đều là cây tự dưỡng, do đó, nó phát triển rất đầy đủ hệ thống lá. Lá mềm mại, duyên dáng và hấp dần. Lá hoặc mọc đơn độc, hoặc xếp dày đặc ở gốc, hay xếp cách đều đặn trên thân, trên củ giả. Hình dạng lá thay đổi rất nhiều từ loại lá mọng nước, nạc, dai, hình kim, hình trụ dài, tiết diện tròn hay có rãnh, đến loại lá hình phiến mỏng, dải, mềm, xanh bóng đậm hay nhạt tùy theo vị trí sống của cây, đặc biệt rất hiếm gặp các loại lá hình tròn Nervilia (Lan thanh tiên quì) hay chia thùy sâu (Lan bằp ngô) Acampe. Lá tận cùng bằng một cuống hay thuôn dài xuống thành bẹ ôm thân. Phiến lá trải rộng hay gấp lại theo các gân vòng cung (như cái quạt) hay chỉ gấp lại theo một gân giữa (hình chữ V). Những lá dưới sát gốc, thường giảm đi chỉ còn những bẹ không có phiến, hay giảm hẳn thành các vẩy. Về màu sắc, phiến lá thường có màu xanh bóng, nhưng đôi khi hai mặt lá có màu khác nhau (thường mặt dưới lá có màu xanh đậm hay tía), mặt trên lại khảm thêm nhiều màu sặc sỡ. Nhiều loài Phong lan có lá màu hồng, màu nâu hồng, và nổi lên các đường vẽ trắng theo các gân, rất đẹp Anoectochilus (Lan sứa).
Phong lan, nhất là các loài ở vùng nhiệt đới, thường trút hết lá trong mùa khô hạn. Lúc này, cây hoặc ra hoa hay sống ẩn, chờ mùa mưa đến, sẽ cho chồi mới. Một số Phong lan sống ở đất có chu kỳ sống đặc sắc, xen mùa lá với mùa hoa. Khi cây ra hoa, toàn bộ các lá đều chết khô đi và sau khi hoa tàn, củ giả sẽ cho chồi lá mới. Ngược lại một số loài Phong lan có lá dày, dai, xanh đậm, sông lâu cả chục năm Vanda (Lan vân đa). Metchnikov (1903) đã coi sự thụ phấn của hoa Phong lan là một trong những mẫu mực kỳ lạ trong những hiện tượng hài hòa của tự nhiên. Do đó, cấu tạo của hoa Phong lan cực kỳ phong phú và hấp dẫn. Ở Phong lan có thể gặp nhiều loài, mỗi mùa chỉ có một đóa hoa nở, hoặc có nhiều cụm hoa mà mỗi cụm chỉ đơm một bông mà thôi. Tuy nhiên, đa số các loài Phong lan đều nở rộ nhiều hoa, tập hợp lại thành chùm (đôi khi phân nhánh thành chùy), phân bố ở đỉnh thân hay nách lá. Gốc cuống chính thường có lá bắc dạng vẩy hay mo. Cuống chính đôi khi rút ngắn lại, làm cụm hoa có dạng tán giả, hay cuống chính vừa ngắn vừa mập, cụm hoa có dạng gần như hình đầu. Nhiều loài, hoa có cuống rất ngắn, nên cụm hoa có dạng bông, hay cuống chính vặn xoắn để hoa xếp theo đường xoắn ốc. Đặc biệt nhiều cụm hoa hình chùy phân nhánh và đạt kích thước rất lớn (Oncidium volvox) ở châu Mỹ có cụm hoa dài đến 5m.
Hoa Phong lan có cấu trúc cơ bản của hoa mẫu 3, là kiều hoa đặc trưng ở lớp Một lá mầm nhưng đã biến đổi rất nhiều để hoa có đối xứng qua một mặt phẳng. Hoa Phong lan thuộc loại hoa lưỡng tính, và đơn dạng, rất hiếm các loại Phong lan đơn tính, tạp tính và nhị dạng. Bao hoa có 2 vòng, mỗi vòng 3 mảnh, chia ra: Ba cánh đài thường có dạng cánh hoa. Cả 3 cánh đài hoặc giống nhau, hoặc cánh đài lưng hơi khác với 2 cánh đài bên (đôi khi cả 3 cánh đài đều dính lại với nhau); còn 3 cánh tràng thì hai cánh bên rất giống với cánh đài rời hay dính với cánh đài bên. Chỉ có cánh tràng giữa biến đổi màu sắc, có chức năng đặc biệt trong sự hấp dẫn và thụ phấn nhờ côn trùng gọi là cánh môi. Cánh môi rất đa dạng, xếp đối diện với cánh đài lưng, luôn luôn ở phía trong cùng, và có kích thước thường lớn hơn cả. Cánh môi có thể nguyên, chia thùy, khía răng, có tua viền, hay chia cắt thành các sợi mảnh. Bề mặt cánh môi hoặc nhẵn, có nhiều gân hay nổi lên các phần phụ đa dạng (u, mào, vách, gợn sóng. . . ). Gốc cánh môi thường mang tuyến mật, trong một cựa dài hay trong một u lồi, phần này hoặc dính vào chân của cột nhị nhụy hay là phần kéo dài ra phía trước của cằm. Cấu tạo của cánh môi độc đáo đến nỗi các nhà khoa học đã đặt nhiều vấn đề để tìm hiểu nguồn gốc của nó.
Trong số 6 nhị của hoa mẫu 3 đặc rưng cho loại hoa Hành tỏi) thì sự biến đổi giảm dần khá phức tạp, từ loại có 3 nhị ( 1 vòng ngoài, 2 vòng trong) của hoa thuộc chi Neuwiedia (Lan huệ), qua loại chỉ còn 2 nhị (vòng trong) của chi Paphiopedilum (Lan hài), tiến đến loại chỉ còn 1 nhị (ở vòng ngoài) của hầu hết các chi còn lại. Về cấu tạo thì cũng từ các chi Phong lan nguyên thủy Neuwiedia (Lan huệ), Apostasia (Lan giả) có nhị và vòi chưa kết hợp với nhau, tiến tới dạng dính liền với nhau thành cột nhị nhụy (ở hầu hết các chi Phong lan khác). Cột nhị nhụy nằm chính giữa hoa, là dấu hiệu cơ bản để định loại họ Phong lan, mang phần đực ở phía trên và phần cái (đầu nhụy) ở mặt trước. Cột này thường dài, thắng hay cong về phía trước, và gốc có thể kéo dài ra phía trước thành cằm. Nhị đực gồm có 2 phần, bao phấn và hốc phấn. Bao phấn nằm ở cột nhị nhụy gần như ngang hay thẳng đứng. Nó hoặc đối diện với cánh đài lưng và ngoại hướng, hoặc đối diện với cánh môi và nội hướng. Còn hốc phấn thì lõm lại, mang khối phấn và thường song song với bao phấn. Khối phấn gồm toàn bộ hạt phấn dính lại với nhau, rất cứng do có tinh bột, sáp hay chất sừng. Số lượng khối phấn biến đổi từ 2, 4, 6 đến 8, có dạng thuôn hay cong lưỡi liềm, đôi khi thuôn dài có đuôi, kết thúc bởi chuôi và gót. Hoa Phong lan cô bầu hạ, thuôn dài kéo theo cuống (rất khó phân biệt giữa bầu và cuống hoa). Sự vặn xoắn toàn bộ hoa trong quá trình phát triển là đặc điểm của bầu. Hoa thường bị vặn xoắn 1800 sao cho cánh môi khi bắt đầu nở hướng ra bên ngoài ở vào phía dưới, làm chỗ đậu thuận lợi cho côn trùng. Rất ít khi gặp hoa vặn 3600 như ở (Lan mai đất tím) Malaxis purpurea, hoặc không vặn gì do cuống hoa buông rủ xuống như ở Stanhopea. Như thế, khi hoa nở, môi vẫn hướng lên trên, nó thích nghi với loại côn trùng ưa lộn đầu xuống khi chui vào hoa. Bầu hoa Phong lan có 3 ô, hoặc đính noãn trung trụ ở các loài Phong lan nguyên thủy, hoặc đính noãn bên ở các loài Phong lan tiến hóa hơn. Chỉ có một đầu nhụy đính vào chỗ lõm của cột nhị, nhụy, ngăn cách với nhị đực bởi mỗ. Bầu có nhiều noãn, nhỏ bé. Quả Phong lan thuộc loại quả nang, nở ra theo 3 - 6 đường nứt dọc, có dạng tù quả cải nạc dài ở Vanilla (Lan vani) đến dạng hình trụ ngắn phình ở giữa (ở đa số các loài khác). Khi chín quả mở ra và mảnh vỏ còn dính lại với nhau ở phía đỉnh và phía gốc. Ở một số loài quả chỉ mở theo 1 - 2 khía dọc, thậm chí không nứt ra, và hạt chỉ ra khỏi vỏ quả khi vỏ này mục nát. Hạt rất nhiều, nhỏ bé (do đó trước đây gọi họ Phong lan là họ Vi tử).
Hạt chỉ cấu tạo bởi một phôi chưa phân hóa, trên một máng lưới nhỏ, xốp chứa đầy không khí. Phải trải qua 2 - 18 tháng hạt mới chín. Phần lớn hạt bị chết vì khó gặp nấm cộng sinh cần thiết để nẩy mầm. Do đó, hạt thì nhiều, có thể gieo giống di rất xa nhờ gió, nhưng hạt nẩy thành cây lại rất hiếm. Chỉ ở trong các cánh rừng già, ẩm ướt, vùng nhiệt đới mới có đủ điều kiện để cho hạt giống nẩy mầm. Trọng lượng toàn bộ hạt trong 1 quả nang chỉ bằng 1 phần mười đến 1 phần ngàn miligam, trong đó không khí chiếm khoảng 76 - 96% thể tích của hạt. Rõ ràng là hạt cây Phong lan hầu như không cố trọng lượng. Nhờ đó hạt Phong lan được gió đưa đi rất xa. Sau họa núi lửa ở Krakatau một thời gian, người ta phát hiện 4 loài Phong lan được đưa đến sống định cư trên hòn đảo hoàn toàn trơ trụi đó.
Thật vậy họ Phong lan Orchidaceae được ví như nữ hoàng của sắc đẹp vì sự đài các của những chùm hoa tuyệt đẹp, màu sắc sặc sỡ và ngào ngạt hương thơm, sự lả lơi của thân cành như mời gọi cho nên họ Phong Lan luôn là nguôn đam mê của mọi giai tầng trong xã hội. Còn bạn, bạn đã có cảm nhận gì về nữ hoàng sắc đẹp này ?
(Trần Hợp – Phùng Mỹ Trung)
Quả vậy, với 750 chi và 20. 000 - 25. 000 loài (theo A.L.Takhtajan 1987), họ Phong lan đã chiếm vị trí thứ hai - sau họ Cúc Asteraceae trong ngành Thực vật hạt kín (Magnoliophyta = Angiospermae) và là họ lớn nhất trong lớp Một lá mầm (Liliopsida = Monocotyledones). Chính vi thế, hình thái, cấu tạo cũng như hệ thống phân loại họ này hết sức đa dạng và phức tạp. Nhìn chung, họ Phong lan bao gồm các loài cây thân thảo, sống lâu năm (đôi khi hóa gỗ một phần ở gốc). Chúng hoặc sống ở đất, nơi hốc vách đá, hoặc sống phụ, sống hoại. . .
Khi sống ở đất, chúng thường có dạng củ nạc, rễ mập và xum xuê hoặc có thân rễ bò dài hay ngắn. Ở xứ lạnh, Phong lan ở đất thường có các cụm hoa màu ít sặc sỡ, sống chen lẫn với các đám cỏ ven rừng, trên các bãi hoang, hay trên các triền núi bên các bụi cây thấp. Còn các loài Phong lan sống ở đất vùng nhiệt đới thì thật đa dạng, chúng mọc ra các cụm hoa sặc sỡ, ngào ngạt hương thơm (hay hôi hám) nổi bật giữa các đám lá xanh nơi đồng cỏ, trong các cánh rừng thưa, hoặc mọc ẩn, len lỏi dưới các bụi cây của các cánh rừng ẩm ướt, thậm chí ven các đầm lầy. Các loài này tuy xa nhau về địa lý, hoàn cảnh sống, nhưng thường vẫn được xếp vào các chi chung, đặc trưng cho các chi toàn cầu là: Herminium, Liparis, Malaxis. . .
Tuy nhiên, nét độc đáo nhất của họ Phong lan là lối sống phụ (bì sinh) bám, treo lơ lửng trên vỏ các thân cây gỗ khác. Chúng phát triển các dạng thân rễ nạc, dài hay ngắn, mập hay mảnh mai, đưa cơ thể bò đi xa, hay chụm lại thành các bụi dày. Hệ rễ khí sinh ở đây vừa làm nhiệm vụ lấy nước, muối khoáng trên vỏ cây gỗ, vừa bám chặt vào giá thể để giữ cây khỏi bị gió cuốn đi, ngoài ra nó lại còn chống đỡ cho cây mọc cao vươn ra chỗ có nắng giữa đám tán cây. Hệ rễ phát triển nhiều hay ít phụ thuộc vào hình dạng chung của cả cơ thể. Ở các loài đặc trưng cho hệ thực vật châu á nhiệt đới và Australia, nhiều loài Phong lan rất nhỏ bé, hình dạng xấu xí, khó khăn lắm mới nhận được sống trong các kẽ nứt của vỏ cây gỗ, trên các cành nhánh cao tít,. Hệ rễ cũng nhỏ đan thành búi. Ngược lại, ở các loài Phong lan có kích thước lớn hay trung bình, hệ rễ khí sinh phát triển rất phong phú, nó mọc rất dài, mập mạp và khỏe cứng (vừa giữ cho cơ thể khỏi bị gió làm lung lay, vừa làm cột chống đỡ cho thân vươn cao). Để làm nhiệm vụ hấp thu chất dinh dưỡng, chúng được bao bởi một lớp mô hút ẩm dày, bao gồm những lớp tế bào chết chứa đầy không khí, do đó nó ánh lên màu xám bạc.
Với lớp mô xốp đó, rễ không những có khả năng hấp thu nước mưa chảy dọc dài trên vỏ cây gỗ, mà còn lấy được nước lơ lửng trong không khí (sương sớm hay hơi nước). Nhiều loài lại có hệ rễ đan bện thảnh một búi chằng chịt, nó là nơi thu gom mùn của vỏ cây để làm nguồn dự trữ chất dinh dưỡng. Ngược lại, ở các loài mọc bò dài, hệ rễ có thể buông thong xuống theo các đoạn thân, chúng hoặc mảnh mai, hay treo lơ lửng trong không khí như các "chòm râu hoặc mập, khỏe, kéo dài xuống tận đất và hoạt động như rễ của các loài cây' khác. Ở một số loài Phong lan có thân, lá kém phát triển (thậm chí tiêu giảm hoàn toàn), hệ rễ phát triển dày đặc và kiêm nhiệm luôn cả vai trò quang hợp. Rễ có dạng dẹt, bò rất dài màu xanh như lá.
Đặc biệt ở các loài Phong lan sống hoại, bộ rễ có hình dạng, cấu trúc khá độc đáo, Nó có dạng búi nhỏ với các vòi hút ngắn, dày đặc để có thể lấy được các chất dinh dưỡng từ đám xác thực vật thông qua hoạt động của nấm. Mặc dù sự "cộng sinh" với nấm nội sinh vốn là đặc tính sống cơ bản của cả họ Phong lan trong giai đoạn hạt nẩy mầm, nhưng chỉ ở một số loài vẫn tồn tại mối quan hệ này trong suốt cuộc đời. Các loài Phong lan này do không sinh ra các cơ quan tự dưỡng, nên vẫn phải duy trì sự giúp đỡ của nấm. Cơ thể của chúng rất nhỏ bé, mảnh mai, không có màu sắc hay mang các sắc tố khác, ngoài màu xanh. Tuy nhiên có ít loài thuộc chi lan hoại Cyrtosia, tuy sống hoại, nhưng có thể dài đến vài chục mét. Nó có khả năng leo bò rất cao, chùm lên cả các tán cây gỗ khác với các móc và vảy màu đỏ (do lá thoái hóa) (thuộc hệ thực vật châu Á nhiệt đới).
Ngược lại, có một số loài Phong lan sống hoại khác lại ẩn sâu trong lòng đất thuộc hệ thực vật Australia), ví như Rhizanthella gardneri, Cryptanthemis slateri, cơ thể chỉ có một thân nhỏ, không rễ cũng không lá. Đến mùa nó sinh ra một cụm hoa, kém phát triển. Cryptanthemis sống cách mặt đất khoảng 2 cm, còn Rhizanthella ở sâu hơn, chỉ có các cụm hoa mọc cao lên sát mặt đất mà thôi. Giống như các loài Phong lan ở trên mặt đất, không có diệp lục khác, các loài sống trong lòng đất này hoạt động được nhờ sự trợ giúp của nấm và gốc mục của các loài cây thân gỗ khác. Nấm là cầu nối giữa hai thành viên thực vật bậc cao. Nó liên kết với các gốc mục để lấy gluxít, muối khoáng, rồi sợi nấm xâm nhập qua lông trên thân của Phong lan và chuyển các chất đó vào nuôi cơ thể Phong lan.
Thân cây họ Phong lan rất ngắn hay kéo dài, đôi khi phân nhánh và mang lá hay không. Theo M. E. PrIIzer (1882) Phong lan có hai loại thân, mà đa số đều thuộc loại sinh trưởng hợp trục (nhóm không thân). Thân này gồm một hệ thống của nhiều nhánh lâu năm, với bộ phận nằm ngang, bò dài trên giá thể hoặc ẩn sâu trong lòng đất gọi là thân rễ. Thân rễ có thể nhẵn, hay có nhiều vảy che phủ (do lá thoái hóa), và một phần mọc thẳng đứng mang lá. Ngược lại rất ít khi gặp các loài Phong lan sinh trưởng đơn trục (Nhóm có thân), nghĩa là sự sinh trưởng của trục chính không giới hạn, làm cho thân rất dài. Cơ thể khó có thể duy trì được tư thế thẳng đứng, nó phải nhờ đến các rễ chống đỡ để vươn cao, nếu không nó đành phải bò dài hay leo cuốn. Dôi khi thân một số loài Phong lan rất ngắn, và bị che khuất bởi hệ thống lá hay rễ mọc thành bụi dày. Ở thân các loài Phong lan sống phụ có nhiều đoạn phình lớn thành củ giả (giả hành). Đó là bộ phận dự trữ nước, các chất dinh dưỡng để nuôi cây trong hoàn cảnh khô hạn khi sống bám trên cao. Củ giả rất đa dạng, hoặc hình cầu, thuôn dài xếp sát nhau, hay rải rác đều đặn (Lan lọng) Bulbophyllum hay hình trụ, xếp chồng chất lên nhau thành một thân giả (Lan hoàng thảo) Dendrobium, kích thước củ giả cũng rất biến động, từ dạng củ rất nhỏ, chỉ lớn bằng đầu chiếc đinh găm (Lan lọng) Bulbophyllum đến dạng hình cầu to như chiếc mũ người lớn Pecteilis susannae (Lan bạch phượng). Cấu tạo củ giả gồm nhiều mô mềm chứa đẩy dịch nhầy, phía ngoài có lớp biểu bì với vách tế bào dày, nhẵn bóng bảo vệ để tránh sự mất nước do mặt trời hun nóng. Đa số củ giả đều có màu xanh bóng, nên cùng với lá, nó cũng làm nhiệm vụ quang hợp.
Các loài Phong lan xứ lạnh, sống ở đất, củ giả lại ìàm nhiệm vụ dự trữ dinh dưỡng (nên không có màu xanh và bị vùi lấp dưới đất). Phía trên củ giả mang lá (1 hay nhiều lá). Hầu hết các loài Phong lan đều là cây tự dưỡng, do đó, nó phát triển rất đầy đủ hệ thống lá. Lá mềm mại, duyên dáng và hấp dần. Lá hoặc mọc đơn độc, hoặc xếp dày đặc ở gốc, hay xếp cách đều đặn trên thân, trên củ giả. Hình dạng lá thay đổi rất nhiều từ loại lá mọng nước, nạc, dai, hình kim, hình trụ dài, tiết diện tròn hay có rãnh, đến loại lá hình phiến mỏng, dải, mềm, xanh bóng đậm hay nhạt tùy theo vị trí sống của cây, đặc biệt rất hiếm gặp các loại lá hình tròn Nervilia (Lan thanh tiên quì) hay chia thùy sâu (Lan bằp ngô) Acampe. Lá tận cùng bằng một cuống hay thuôn dài xuống thành bẹ ôm thân. Phiến lá trải rộng hay gấp lại theo các gân vòng cung (như cái quạt) hay chỉ gấp lại theo một gân giữa (hình chữ V). Những lá dưới sát gốc, thường giảm đi chỉ còn những bẹ không có phiến, hay giảm hẳn thành các vẩy. Về màu sắc, phiến lá thường có màu xanh bóng, nhưng đôi khi hai mặt lá có màu khác nhau (thường mặt dưới lá có màu xanh đậm hay tía), mặt trên lại khảm thêm nhiều màu sặc sỡ. Nhiều loài Phong lan có lá màu hồng, màu nâu hồng, và nổi lên các đường vẽ trắng theo các gân, rất đẹp Anoectochilus (Lan sứa).
Phong lan, nhất là các loài ở vùng nhiệt đới, thường trút hết lá trong mùa khô hạn. Lúc này, cây hoặc ra hoa hay sống ẩn, chờ mùa mưa đến, sẽ cho chồi mới. Một số Phong lan sống ở đất có chu kỳ sống đặc sắc, xen mùa lá với mùa hoa. Khi cây ra hoa, toàn bộ các lá đều chết khô đi và sau khi hoa tàn, củ giả sẽ cho chồi lá mới. Ngược lại một số loài Phong lan có lá dày, dai, xanh đậm, sông lâu cả chục năm Vanda (Lan vân đa). Metchnikov (1903) đã coi sự thụ phấn của hoa Phong lan là một trong những mẫu mực kỳ lạ trong những hiện tượng hài hòa của tự nhiên. Do đó, cấu tạo của hoa Phong lan cực kỳ phong phú và hấp dẫn. Ở Phong lan có thể gặp nhiều loài, mỗi mùa chỉ có một đóa hoa nở, hoặc có nhiều cụm hoa mà mỗi cụm chỉ đơm một bông mà thôi. Tuy nhiên, đa số các loài Phong lan đều nở rộ nhiều hoa, tập hợp lại thành chùm (đôi khi phân nhánh thành chùy), phân bố ở đỉnh thân hay nách lá. Gốc cuống chính thường có lá bắc dạng vẩy hay mo. Cuống chính đôi khi rút ngắn lại, làm cụm hoa có dạng tán giả, hay cuống chính vừa ngắn vừa mập, cụm hoa có dạng gần như hình đầu. Nhiều loài, hoa có cuống rất ngắn, nên cụm hoa có dạng bông, hay cuống chính vặn xoắn để hoa xếp theo đường xoắn ốc. Đặc biệt nhiều cụm hoa hình chùy phân nhánh và đạt kích thước rất lớn (Oncidium volvox) ở châu Mỹ có cụm hoa dài đến 5m.
Hoa Phong lan có cấu trúc cơ bản của hoa mẫu 3, là kiều hoa đặc trưng ở lớp Một lá mầm nhưng đã biến đổi rất nhiều để hoa có đối xứng qua một mặt phẳng. Hoa Phong lan thuộc loại hoa lưỡng tính, và đơn dạng, rất hiếm các loại Phong lan đơn tính, tạp tính và nhị dạng. Bao hoa có 2 vòng, mỗi vòng 3 mảnh, chia ra: Ba cánh đài thường có dạng cánh hoa. Cả 3 cánh đài hoặc giống nhau, hoặc cánh đài lưng hơi khác với 2 cánh đài bên (đôi khi cả 3 cánh đài đều dính lại với nhau); còn 3 cánh tràng thì hai cánh bên rất giống với cánh đài rời hay dính với cánh đài bên. Chỉ có cánh tràng giữa biến đổi màu sắc, có chức năng đặc biệt trong sự hấp dẫn và thụ phấn nhờ côn trùng gọi là cánh môi. Cánh môi rất đa dạng, xếp đối diện với cánh đài lưng, luôn luôn ở phía trong cùng, và có kích thước thường lớn hơn cả. Cánh môi có thể nguyên, chia thùy, khía răng, có tua viền, hay chia cắt thành các sợi mảnh. Bề mặt cánh môi hoặc nhẵn, có nhiều gân hay nổi lên các phần phụ đa dạng (u, mào, vách, gợn sóng. . . ). Gốc cánh môi thường mang tuyến mật, trong một cựa dài hay trong một u lồi, phần này hoặc dính vào chân của cột nhị nhụy hay là phần kéo dài ra phía trước của cằm. Cấu tạo của cánh môi độc đáo đến nỗi các nhà khoa học đã đặt nhiều vấn đề để tìm hiểu nguồn gốc của nó.
Trong số 6 nhị của hoa mẫu 3 đặc rưng cho loại hoa Hành tỏi) thì sự biến đổi giảm dần khá phức tạp, từ loại có 3 nhị ( 1 vòng ngoài, 2 vòng trong) của hoa thuộc chi Neuwiedia (Lan huệ), qua loại chỉ còn 2 nhị (vòng trong) của chi Paphiopedilum (Lan hài), tiến đến loại chỉ còn 1 nhị (ở vòng ngoài) của hầu hết các chi còn lại. Về cấu tạo thì cũng từ các chi Phong lan nguyên thủy Neuwiedia (Lan huệ), Apostasia (Lan giả) có nhị và vòi chưa kết hợp với nhau, tiến tới dạng dính liền với nhau thành cột nhị nhụy (ở hầu hết các chi Phong lan khác). Cột nhị nhụy nằm chính giữa hoa, là dấu hiệu cơ bản để định loại họ Phong lan, mang phần đực ở phía trên và phần cái (đầu nhụy) ở mặt trước. Cột này thường dài, thắng hay cong về phía trước, và gốc có thể kéo dài ra phía trước thành cằm. Nhị đực gồm có 2 phần, bao phấn và hốc phấn. Bao phấn nằm ở cột nhị nhụy gần như ngang hay thẳng đứng. Nó hoặc đối diện với cánh đài lưng và ngoại hướng, hoặc đối diện với cánh môi và nội hướng. Còn hốc phấn thì lõm lại, mang khối phấn và thường song song với bao phấn. Khối phấn gồm toàn bộ hạt phấn dính lại với nhau, rất cứng do có tinh bột, sáp hay chất sừng. Số lượng khối phấn biến đổi từ 2, 4, 6 đến 8, có dạng thuôn hay cong lưỡi liềm, đôi khi thuôn dài có đuôi, kết thúc bởi chuôi và gót. Hoa Phong lan cô bầu hạ, thuôn dài kéo theo cuống (rất khó phân biệt giữa bầu và cuống hoa). Sự vặn xoắn toàn bộ hoa trong quá trình phát triển là đặc điểm của bầu. Hoa thường bị vặn xoắn 1800 sao cho cánh môi khi bắt đầu nở hướng ra bên ngoài ở vào phía dưới, làm chỗ đậu thuận lợi cho côn trùng. Rất ít khi gặp hoa vặn 3600 như ở (Lan mai đất tím) Malaxis purpurea, hoặc không vặn gì do cuống hoa buông rủ xuống như ở Stanhopea. Như thế, khi hoa nở, môi vẫn hướng lên trên, nó thích nghi với loại côn trùng ưa lộn đầu xuống khi chui vào hoa. Bầu hoa Phong lan có 3 ô, hoặc đính noãn trung trụ ở các loài Phong lan nguyên thủy, hoặc đính noãn bên ở các loài Phong lan tiến hóa hơn. Chỉ có một đầu nhụy đính vào chỗ lõm của cột nhị, nhụy, ngăn cách với nhị đực bởi mỗ. Bầu có nhiều noãn, nhỏ bé. Quả Phong lan thuộc loại quả nang, nở ra theo 3 - 6 đường nứt dọc, có dạng tù quả cải nạc dài ở Vanilla (Lan vani) đến dạng hình trụ ngắn phình ở giữa (ở đa số các loài khác). Khi chín quả mở ra và mảnh vỏ còn dính lại với nhau ở phía đỉnh và phía gốc. Ở một số loài quả chỉ mở theo 1 - 2 khía dọc, thậm chí không nứt ra, và hạt chỉ ra khỏi vỏ quả khi vỏ này mục nát. Hạt rất nhiều, nhỏ bé (do đó trước đây gọi họ Phong lan là họ Vi tử).
Hạt chỉ cấu tạo bởi một phôi chưa phân hóa, trên một máng lưới nhỏ, xốp chứa đầy không khí. Phải trải qua 2 - 18 tháng hạt mới chín. Phần lớn hạt bị chết vì khó gặp nấm cộng sinh cần thiết để nẩy mầm. Do đó, hạt thì nhiều, có thể gieo giống di rất xa nhờ gió, nhưng hạt nẩy thành cây lại rất hiếm. Chỉ ở trong các cánh rừng già, ẩm ướt, vùng nhiệt đới mới có đủ điều kiện để cho hạt giống nẩy mầm. Trọng lượng toàn bộ hạt trong 1 quả nang chỉ bằng 1 phần mười đến 1 phần ngàn miligam, trong đó không khí chiếm khoảng 76 - 96% thể tích của hạt. Rõ ràng là hạt cây Phong lan hầu như không cố trọng lượng. Nhờ đó hạt Phong lan được gió đưa đi rất xa. Sau họa núi lửa ở Krakatau một thời gian, người ta phát hiện 4 loài Phong lan được đưa đến sống định cư trên hòn đảo hoàn toàn trơ trụi đó.
Thật vậy họ Phong lan Orchidaceae được ví như nữ hoàng của sắc đẹp vì sự đài các của những chùm hoa tuyệt đẹp, màu sắc sặc sỡ và ngào ngạt hương thơm, sự lả lơi của thân cành như mời gọi cho nên họ Phong Lan luôn là nguôn đam mê của mọi giai tầng trong xã hội. Còn bạn, bạn đã có cảm nhận gì về nữ hoàng sắc đẹp này ?
(Trần Hợp – Phùng Mỹ Trung)
Relate Threads
Latest Threads