Cá Koi và phân loại cơ bản - Sưu tầm

Thảo luận trong 'Cá Koi - Koi Fish' bắt đầu bởi anhdenday, 16/4/14.

  1. anhdenday

    anhdenday Moderator

    Tham gia ngày:
    19/9/10
    Bài viết:
    80
    Được thích:
    1
    Điểm thành tích:
    16
    Trong 1 khu vườn của người Nhật, có cây, có đá, có non bộ, và không thể thiếu 1 hồ cá chép Nhật.

    Tên latin : Carassius auratus
    Tên tiếng Việt : Cá chép Nhật bản / cá KOI
    Tên tiếng Anh : KOI / Carp koi .
    Nguồn gốc: Nhật bản, hay nói chính xác hơn là những công trình lai tạo của người Nhật từ cá chép trong thiên nhiên .
    Họ: Cyprinidae
    Kích thước: Nếu nuôi trong bể kính , kích thước của chúng khá khiêm tốn : 25 cm . Khi được đưa ra nuôi ở môi trường bên ngoài Koi có thể đạt tới 80 cm
    Tuổi thọ: 25 - 35 năm . Tuổi thọ cá trống luôn cao hơn cá mái .
    Tầng sống: Hoạt động ở mọi tầng nước
    Phân biệt giới tính: Cá trống có thân hình thuôn dài , hai vây ngực và nắp mang có nhiều nốt sần màu trắng nhìn thấy khá rõ ràng . Cá mái có thân mình mập tròn , nở to nhiều ở phần bụng .
    Thức ăn: Koi thích ứng nhiều loại thức ăn khác nhau : từ mồi sống đến thực vật nhỏ như bèo tấm - rong mềm ... đến những loại thức ăn tổng hợp chuyên biệt .
    Quan hệ: Cá koi hiền lành và thân thiện với nhiều loại cá không quá bé . Có những biểu hiện gần gũi với chủ nuôi do phản xạ có điều kiện của chúng là rất tốt .
    Sinh sản: Cá KOI có thể đẻ dể dàng trong môi trường nhân tạo khi thuần thục ở 1 năm tuổi . Thường thì được cho đẻ theo từng nhóm nhỏ cân đối trống mái hoặc cá trống nhiều hơn cá mái . Bể đẻ thường không sâu và khá trống trải để sau khi cá đẻ có thể bắt cá bố mẹ ra ngoài .Cá đẻ thường vào sáng sớm , cá trống luôn bám đuổi và thúc vào hông cũng như vùng bụng của cá mái . Cá mái 2- 3 năm tuổi có thể cho 150 đến 200 ngàn trứng / mổi lần đẻ . Trứng rơi rãi bám lên khắp nơi trong bể : nền , cây thủy sinh , rễ bèo hay lục bình ...Sau 50 giờ trứng nở thành cá bột . Sau khi tiêu thụ hết noãn hoàng , thức ăn đầu tiên là tảo xanh ( blue water ) hình thành trong bể , vì vậy bể ấp cần có ánh sáng khuếch tán nhưng tránh ánh sáng gay gắt trực tiếp . Những ngày sau nữa là ấu trùng monia , daphnia và cám nhuyễn ...
    Môi trường: Cá Koi thích nghi tốt nhiều môi trường khác nhau : pH 4 - 9 , nhưng tốt nhất vào khoảng 7-7,5 . Nước có nồng độ oxy tối thiểu 2mg/ lít .
    Nhiệt độ: Cá Koi có khã năng thích ứng nhiệt độ từ 0 - 24 độC , thậm chí ở nhiệt độ cao hơn : 24 - 30 độ C vẫn không ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe cá .
    Thông tin thêm: Cá chép nói chung , cá Koi nói riêng là loại cá nuôi lâu đời nhất : 2000 năm ở Trung quốc , 600 năm ở châu Âu . Cá Koi luôn gắn liền với hình ảnh nước Nhật nên được gọi là cá chép Nhật . Tương tự , cá vàng là loại cá hết sức thành công của người Trung hoa nên có tên thông dụng là cá Tàu . Các công trình lai tạo cho ra những giống KOI mới luôn tiếp diễn sau bao nhiêu thời gian và bao nhiêu thế hệ người nuôi , bao nhiêu thế hệ cá . Thành quả có thể đếm được nhưng công sức và sự kiên trì lại không có thước đo !

    Koi (tiếng Nhật: 鯉, koi) là một loại cá cảnh được thuần hoá và lai tạo từ nhóm cá chép nguyên thuỷ. Chúng có họ hàng rất gần với cá vàng, thực tế chúng rất giống cá vàng về cách thức sinh sản, những nhà nhân giống Nhật Bản cố gắng tạo ra một giống cá mới cạnh tranh với cá vàng nhưng họ tạo ra một giống cá khác xa cá vàng.
    Ở Nhật BẢn từ Koi đồng nghiã với "cá chép" thuộc nhóm cá chép màu nâu. Từ Nishikigoi (錦鯉: "Cá chép thêu hoa"), ở Nhật Bản là cá chép lai tạo. Từ Koi là từ tiếng Anh được dùng để chỉ loài cá chép có nhiêù màu sắc sặc sỡ.
    Tập tính/Chăm sóc:
    Chép Koi là loài cá khoẻ mạnh, chúng ta có thể nuôi trong hồ nhỏ hay trong ao hồ lớn ngoài trời. Koi có thể lớn đến 90 cm.
    Koi là loài cá ưa thích môi trường nước lạnh, tuy nhiên chúng thích ở độ sâu trên 1 mét vào muà đông, nên ở những nơi có muà đông khắc nghiệt nên nuôi cá trong hồ có độ sâu >1.5 mét.
    Màu sắc sặc sỡ và sáng cuả chép Koi là một bất lợi lớn cuả chúng khi luôn phơi mình ra trước mắt các động vật săn mồi khác, chép Koi như là một bưã ăn bắt mắt trên nền hồ màu lục. Chim diệc, chim bói cá, mèo, cáo..là những loài thú có thể dọn sạch một hồ chép Koi. Do đó khi thiết kế hồ chép Koi ngoài trời cần có độ sâu trên 1.5 mét để những loài chim như diệc không thể đứng trong hồ, thành hồ cao đủ để các loài thú không thể tiếp xúc được để bắt cá, có bóng râm để che tầm nhìn cuả những loài chim săn cá khác.
    Koi là là cá ăn tầng đáy, tuy nhiên thức ăn nổi sẽ thu hút chúng lên mặt nước để ăn. Khí cá ăn ta có thể kiểm tra được những cá thể bị động vật ký sinh bám vào hay những đốm nấm.... Chép KOi có khả năng nhận ra người nuôi chúng, khi thấy người quen chúng sẽ bơi vòng quanh chờ cho ăn, chúng ta có thể tập cho cá ăn thức ăn trên tay. Nếu được chăm sóc tốt chép KOI có thể sống từ 30-35 năm.
    Thức ăn:
    Thức ăn viên nhân tạo tốt cho cá vì nó cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cho cá, ngoài ra để tạo sự cân bằng về dinh dưỡng cho cá ta cần cho cá ăn thêm rau củ, vì là loài cá ăn tạp nên cá có thể ăn nhiều loại thức ăn khác nhau và nhanh chóng chấp nhận món ăn mới.
    Ở những vùng có khí hậu khắc nghiệt thì muà hè là thời gian cá tăng trưởng nhanh nhất do đó cần phải cung cấp thức ăn đầy đủ cho cá để cá tăng trọng trưởng nhanh.
    Để cung cấp đủ Vitamin chó cá ta nên dùng thức ăn đông lạnh như tép nhỏ, nhuyễn thể (loại thức ăn mà cá voi hay ăn), loại thức ăn này cung cấp đầy đủ vitamin và sắc tố màu giúp chép Koi phát triển màu toàn diện.
    Sinh Sản:
    Koi phát triển toàn diện mất 3-4 năm, màu sắc không nói lên giới tính cuả cá. Cá không thể hiện giới tính khi chiều dài dưới 25cm, lúc này sự phát triển chưa đầy đủ. Khi chép KoI đạt kích thước đủ lớn để phát triển giới tính đầy đủ, cá trốmh bắt đầu phát triển cơ quan sinh dục đực và cá mái phát triển buồng trứng; buồng trứng dạng hình ống lớn hơn rất nhiểu so với cơ quan sinh dục cuả cá trống, do đó cá mái luôn có bụng to hơn, tròn trĩnh hơn, cá trống thon dài hơn và như là một "trái ngư lôi".
    Thức ăn giàu protein làm cho cá nhanh chóng bước vào giai đoạn sinh sản, nhưng không nên cung cấp thức ăn này khi nhiệt độ còn quá thấp dưới 70 độ F. Hãy bắt đầu với những giống KOI cùng loại sẽ cho kết quả khả quan hơn, giống showa, sanke, kohaku hay Ogons có cùng tông màu. Cá mái không bao giờ bắt đầu đẻ trứng một cách tự nhiên khi mà chưa có đủ số lượng cá trống áp đảo đủ để thụ tinh cho số trứng mà con mái sẽ đẻ ra. Cá mái hoặc sẽ giải phóng hết tất cả số trứng ra khỏi cơ thể cuả nó hoặc là số trứng đó sẽ thối rữa, hư hỏng trong cơ thể cá mái và làm cho chúng bị nhiễm độc mà chết. Do đó tỷ lệ tốt nhất là 2-3 cá trống cho ép cùng một cá mái cùng kích cỡ.
    Trứng cuả chép KOI là những hạt màu trắng như những quả cầu nhỏ, chúng như được bao bọc và kết nối lại với nhau nhưng thực tế là các trứng này hoàn toàn độc lập với nhau. Cần chú ý nếu khu vực nuôi có nhiều cóc, trứng màu đen hoàn toàn là trứng cóc chư không phải trứng cuả chép KOI hay cá vàng đâu! Trứng được vớt ra đưa qua bể khác tránh trường hợp cá cha mẹ ăn trứng.
    Tên tiếng Việt: Chép KOI [​IMG]
    Tên tiếng Anh: Carp
    Xuất xứ: Nhật Bản.
    Họ: Cyprinidae
    Kích thước: 90 cm
    Tuổi thọ: 30 năm.
    Phân biệt giới tính: cá trống lớn hơn cá mái, cá trống có thân hình thon dài, cá mái mập mạp, mủm mỉm.
    Thức ăn: ăn tạp.
    Bể: lớn hơn 160 lít, cá Koi lớn rất nhanh nên cần phải có hồ lớn để nuôi chúng.
    Tầng sống: tầng giưã và tầng đáy.
    Quan hệ: rất hoà bình và thân thiện.
    Nhân giống: đẻ trứng.
    Môi trường: cá do con người lai tạo từ dòng cá chép nguyên thủy.
    Nhiệt độ: 20°C-25°
    pH: 7.2 - 7.8
    dH:
    Mô tả:
    Koi (tiếng Nhật: 鯉, koi) là một loại cá cảnh được thuần hoá và lai tạo từ nhóm cá chép nguyên thuỷ. Chúng có họ hàng rất gần với cá vàng, thực tế chúng rất giống cá vàng về cách thức sinh sản, những nhà nhân giống Nhật Bản cố gắng tạo ra một giống cá mới cạnh tranh với cá vàng nhưng họ tạo ra một giống cá khác xa cá vàng.
    Ở Nhật BẢn từ Koi đồng nghiã với "cá chép" thuộc nhóm cá chép màu nâu. Từ Nishikigoi (錦鯉: "Cá chép thêu hoa"), ở Nhật Bản là cá chép lai tạo. Từ Koi là từ tiếng Anh được dùng để chỉ loài cá chép có nhiêù màu sắc sặc sỡ.
    Tập tính/Chăm sóc:
    Chép Koi là loài cá khoẻ mạnh, chúng ta có thể nuôi trong hồ nhỏ hay trong ao hồ lớn ngoài trời. Koi có thể lớn đến 90 cm.
    Koi là loài cá ưa thích môi trường nước lạnh, tuy nhiên chúng thích ở độ sâu trên 1 mét vào muà đông, nên ở những nơi có muà đông khắc nghiệt nên nuôi cá trong hồ có độ sâu >1.5 mét.
    Màu sắc sặc sỡ và sáng cuả chép Koi là một bất lợi lớn cuả chúng khi luôn phơi mình ra trước mắt các động vật săn mồi khác, chép Koi như là một bưã ăn bắt mắt trên nền hồ màu lục. Chim diệc, chim bói cá, mèo, cáo..là những loài thú có thể dọn sạch một hồ chép Koi. Do đó khi thiết kế hồ chép Koi ngoài trời cần có độ sâu trên 1.5 mét để những loài chim như diệc không thể đứng trong hồ, thành hồ cao đủ để các loài thú không thể tiếp xúc được để bắt cá, có bóng râm để che tầm nhìn cuả những loài chim săn cá khác.
    Koi là là cá ăn tầng đáy, tuy nhiên thức ăn nổi sẽ thu hút chúng lên mặt nước để ăn. Khí cá ăn ta có thể kiểm tra được những cá thể bị động vật ký sinh bám vào hay những đốm nấm.... Chép KOi có khả năng nhận ra người nuôi chúng, khi thấy người quen chúng sẽ bơi vòng quanh chờ cho ăn, chúng ta có thể tập cho cá ăn thức ăn trên tay. Nếu được chăm sóc tốt chép KOI có thể sống từ 30-35 năm.
    Thức ăn:
    Thức ăn viên nhân tạo tốt cho cá vì nó cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cho cá, ngoài ra để tạo sự cân bằng về dinh dưỡng cho cá ta cần cho cá ăn thêm rau củ, vì là loài cá ăn tạp nên cá có thể ăn nhiều loại thức ăn khác nhau và nhanh chóng chấp nhận món ăn mới.
    Ở những vùng có khí hậu khắc nghiệt thì muà hè là thời gian cá tăng trưởng nhanh nhất do đó cần phải cung cấp thức ăn đầy đủ cho cá để cá tăng trọng trưởng nhanh.
    Để cung cấp đủ Vitamin chó cá ta nên dùng thức ăn đông lạnh như tép nhỏ, nhuyễn thể (loại thức ăn mà cá voi hay ăn), loại thức ăn này cung cấp đầy đủ vitamin và sắc tố màu giúp chép Koi phát triển màu toàn diện.
    Sinh Sản:
    Koi phát triển toàn diện mất 3-4 năm, màu sắc không nói lên giới tính cuả cá. Cá không thể hiện giới tính khi chiều dài dưới 25cm, lúc này sự phát triển chưa đầy đủ. Khi chép KoI đạt kích thước đủ lớn để phát triển giới tính đầy đủ, cá trốmh bắt đầu phát triển cơ quan sinh dục đực và cá mái phát triển buồng trứng; buồng trứng dạng hình ống lớn hơn rất nhiểu so với cơ quan sinh dục cuả cá trống, do đó cá mái luôn có bụng to hơn, tròn trĩnh hơn, cá trống thon dài hơn và như là một "trái ngư lôi".
    Thức ăn giàu protein làm cho cá nhanh chóng bước vào giai đoạn sinh sản, nhưng không nên cung cấp thức ăn này khi nhiệt độ còn quá thấp dưới 70 độ F. Hãy bắt đầu với những giống KOI cùng loại sẽ cho kết quả khả quan hơn, giống showa, sanke, kohaku hay Ogons có cùng tông màu. Cá mái không bao giờ bắt đầu đẻ trứng một cách tự nhiên khi mà chưa có đủ số lượng cá trống áp đảo đủ để thụ tinh cho số trứng mà con mái sẽ đẻ ra. Cá mái hoặc sẽ giải phóng hết tất cả số trứng ra khỏi cơ thể cuả nó hoặc là số trứng đó sẽ thối rữa, hư hỏng trong cơ thể cá mái và làm cho chúng bị nhiễm độc mà chết. Do đó tỷ lệ tốt nhất là 2-3 cá trống cho ép cùng một cá mái cùng kích cỡ.
    Trứng cuả chép KOI là những hạt màu trắng như những quả cầu nhỏ, chúng như được bao bọc và kết nối lại với nhau nhưng thực tế là các trứng này hoàn toàn độc lập với nhau. Cần chú ý nếu khu vực nuôi có nhiều cóc, trứng màu đen hoàn toàn là trứng cóc chư không phải trứng cuả chép KOI hay cá vàng đâu! Trứng được vớt ra đưa qua bể khác tránh trường hợp cá cha mẹ ăn trứng.
     

    Bài viết mới
    Help me
    Help me bởi xr3gai, 17/10/20 lúc 09:34
    Last edited by a moderator: 6/9/18

Nếu chưa có nick trên chimcanhviet.vn thì dùng nick facebook bình luận nhé